142. KHÚC TƯỞNG NIỆM
Không, không phải dưới bầu trời xứ lạ
Và cũng không đôi cánh lạ giữ gìn –
Tôi cùng với đồng bào mình khi đó
Thật không may rằng tôi ở với nhân dân.
1961
Thay lời tựa
Trong những tháng năm khủng khiếp của cuộc trấn áp Yezhov (1), tôi đã trải qua 17 tháng trời trong những dòng người tập trung ở Leningrad. Một lần, có ai đó “nhận” ra tôi. Khi đó, một người phụ nữ đứng sau lưng tôi, tất nhiên là chưa bao giờ nghe tên tôi, như chợt tỉnh khỏi cái vẻ đờ đẫn vốn có, ghé vào tai tôi (ở đó tất cả đều nói thầm):
- Thế những chuyện thế này chị có tả được không?
Và tôi trả lời:
- Được.
Khi đó, có một vẻ gì giống như một nụ cười thoáng qua trên gương mặt của chị ta như ngày nào.
Leningrad 1-4-1957
Lời dâng
Trước nỗi đau này rừng cúi xuống
Và dòng sông rộng lớn cũng ngừng trôi
Nhưng những cánh cửa nhà tù chắc nặng
Còn đằng sau là "những kẻ khổ sai"
Và nỗi buồn đau chết người.
Giờ đang thổi cho ai cơn gió mát
Và chỉ dành cho ai đấy hoàng hôn
Còn chúng tôi giờ đây, không biết được
Nghe khắp nơi tiếng cổng khoá đau buồn
Và nặng nề tiếng người lính giậm chân
Như đi vào lễ mi xa buổi sáng
Vào kinh đô của chết chóc, hoang tàn
Nơi đó gặp những người sắp chết
Dưới mặt trời và Nê-va mù sương
Còn hy vọng vang lên chốn xa xăm
Nghe bản án… và bỗng trào nước mắt
Với mọi người tất cả đã cách ngăn
Cuộc đời
như từ trong tim đau đớn
Tựa hồ như
bị người ta đem quẳng
Nhưng một
mình rảo bước… chỉ một mình
Ở đâu
những người bạn gái vô tình
Hai người
bạn của tháng năm cay đắng?
Hình dung
gì trong bão tuyết Xibêri
Trong ánh
trăng thanh họ cảm thấy điều gì?
Cho tôi
gửi họ lời chào vĩnh biệt.
3-1940
Lời mở đầu
Điều này chỉ xảy ra khi mỉm cười
Và vui vẻ lặng yên người đã chết
Và không cần vẻ tròng trành, đung đưa
Quanh những nhà tù thành phố Leningrad.
Và chỉ khi đau đớn đến cuồng điên
Đã bước đi dòng người bị kết án
Và tiếng còi ly biệt đã vang lên
Con tàu hoả rú những hồi còi ngắn
Những ngôi sao chết chóc trên đầu ta
Và nước Nga vô tội đang quằn quại
Dưới những đôi giày đinh thấm máu
Dưới bánh những xe đen đúa chở người tù (2).
Và vui vẻ lặng yên người đã chết
Và không cần vẻ tròng trành, đung đưa
Quanh những nhà tù thành phố Leningrad.
Và chỉ khi đau đớn đến cuồng điên
Đã bước đi dòng người bị kết án
Và tiếng còi ly biệt đã vang lên
Con tàu hoả rú những hồi còi ngắn
Những ngôi sao chết chóc trên đầu ta
Và nước Nga vô tội đang quằn quại
Dưới những đôi giày đinh thấm máu
Dưới bánh những xe đen đúa chở người tù (2).
1
Người ta đưa con đi buổi bình minh
Mẹ chạy theo sau như người đi đưa đám
Trong nhà tối tiếng trẻ khóc vang lên
Trên bàn thờ ngọn nến đang rơi xuống!
Trên môi con giá băng hình tượng thánh
Và mồ hôi chết trên vầng trán… không quên!
Mẹ sẽ đứng bên tháp Đồng hồ Chuông điện (3)
Như vợ những ông quan bị hành quyết sẽ tru lên.
Mẹ chạy theo sau như người đi đưa đám
Trong nhà tối tiếng trẻ khóc vang lên
Trên bàn thờ ngọn nến đang rơi xuống!
Trên môi con giá băng hình tượng thánh
Và mồ hôi chết trên vầng trán… không quên!
Mẹ sẽ đứng bên tháp Đồng hồ Chuông điện (3)
Như vợ những ông quan bị hành quyết sẽ tru lên.
11-1935
2
Sông Đông
êm đềm trôi thao thiết
Ghé vào
nhà ánh trăng vàng.
Vầng trăng
đội mũ lệch
Bước vào
nhà nhìn ngó xung quanh.
Người đàn
bà này đớn đau, tủi nhục
Người đàn
bà này cô độc trên đời.
Chồng dưới
mộ, con trai nơi tù ngục (4)
Mọi người
ơi hãy cầu nguyện cho tôi.
1938
3
Không,
không phải tôi, mà khổ đau ai đấy
Bởi có thể
nào chịu nổi điều xảy ra
Hãy cứ để
cho tấm vải đen che lấy
Và để
những ngọn đèn sẽ mang bóng đêm đi.
1939
4
Giá mà được đem tất cả bạn bè
Chỉ cho mi – kẻ buồn cười, người yêu mến
Kẻ tội lỗi hồn nhiên của khu làng sang trọng (5)
Điều gì xảy ra với cuộc đời mi –
Với túi đồ cùng ba trăm người kia
Dưới những cây thập tự kia sẽ đứng
Và bằng nước mắt của mình cháy bỏng
Giá băng của đêm năm mới đốt lên.
Ở đó cây dương nhà tù đang nghiêng mình
Không một tiếng động vang lên – và ở đó
Có biết bao kẻ vô tội phải lìa trần…
Chỉ cho mi – kẻ buồn cười, người yêu mến
Kẻ tội lỗi hồn nhiên của khu làng sang trọng (5)
Điều gì xảy ra với cuộc đời mi –
Với túi đồ cùng ba trăm người kia
Dưới những cây thập tự kia sẽ đứng
Và bằng nước mắt của mình cháy bỏng
Giá băng của đêm năm mới đốt lên.
Ở đó cây dương nhà tù đang nghiêng mình
Không một tiếng động vang lên – và ở đó
Có biết bao kẻ vô tội phải lìa trần…
1938
5
Kêu lên
suốt mười bảy tháng
Gọi về nhà
đứa con tôi
Dưới chân
kẻ hành hình ngã xuống
Con trai
và điều khủng khiếp của tôi ơi.
Tất cả đều
lẫn lộn đến muôn đời
Và tôi
không tài nào hiểu nổi
Giờ đây ai
thú dữ, ai người
Còn lâu
không ngày hành hình phải đợi.
Chỉ những
bông hoa đầy bụi
Và tiếng
ngân vang của bình hương
Vọng về
đâu giữa thinh không.
Vào đôi
mắt tôi, đang nhìn thẳng
Doạ bằng
cái chết ngày sắp đến
Một ngôi
sao lớn vô cùng.
1939
6
Ngày tháng
bay đi rất nhẹ nhàng
Điều gì đã
xảy ra, không hiểu được
Con trai
của tôi ra sao nơi tù ngục
Những đêm
trắng vẫn ngó nhìn
Chúng lại
vẫn ngó nhìn
Bằng con
mắt diều hâu nóng bỏng
Về cây
thập ác của con cao lắm
Và nói về
cái chết của con.
Mùa xuân
1939
7
Bản
án
Và đã rơi xuống một lời bằng đá
Trên ngực hãy còn sống động của tôi.
Thì chẳng sao, tôi đã sẵn sàng rồi
Khắc phục nó bằng một cách nào đó.
Ngày hôm nay có nhiều việc phải làm
Cần xóa sạch những gì trong trí nhớ
Cần phải làm cho tâm hồn hóa đá
Cần học lại cách sống để giữ mình.
Chứ không phải… tiếng mùa hè nóng bỏng
Như lễ hội sau cửa sổ nhà tôi
Tôi từ lâu linh cảm trước ngày này
Ngày sáng sủa và ngôi nhà hoang vắng.
Trên ngực hãy còn sống động của tôi.
Thì chẳng sao, tôi đã sẵn sàng rồi
Khắc phục nó bằng một cách nào đó.
Ngày hôm nay có nhiều việc phải làm
Cần xóa sạch những gì trong trí nhớ
Cần phải làm cho tâm hồn hóa đá
Cần học lại cách sống để giữ mình.
Chứ không phải… tiếng mùa hè nóng bỏng
Như lễ hội sau cửa sổ nhà tôi
Tôi từ lâu linh cảm trước ngày này
Ngày sáng sủa và ngôi nhà hoang vắng.
1939
8
Gửi
cái chết
Mi sẽ đến
– sao chẳng đến lúc này?
Ta đợi mi
– bây giờ ta khó ở
Ta tắt
ngọn đèn và ta đóng cửa
Mi giản
đơn và thật lạ lùng thay.
Vẻ nào
cũng được, hãy nhận cho điều này
Hãy xông
vào giết bằng liều thuốc độc
Hoặc lẻn
đến gần như tên kẻ cướp
Hoặc đầu
độc bằng cơn sốt ngất ngây.
Hoặc bằng
câu chuyện do mi nghĩ ra
Mà tất cả
đã từng nghe chán ngấy
Để chiếc
mũ xanh trên cao ta sẽ thấy
Và vẻ xanh
xao sợ hãi, kẻ trông nhà.
Sao cũng
được. Sông Ênixây gào thét
Và ngôi
sao bắc cực sẽ ánh lên
Và màu
xanh những đôi mắt yêu thương
Điều khủng
khiếp cuối cùng đem che khuất.
8-1939
9
Và sự điên
cuồng bằng đôi cánh
Đã bao
trùm lên một nửa linh hồn
Và nó uống
say bằng rượu mạnh
Vẫy gọi
vào thung lũng màu đen.
Và tôi
hiểu ra rằng, cho nó
Tôi phải
nhường lại sự vinh quang
Tôi nghe
theo cơn mê sảng của mình
Mà dường
như nghe cơn mê xa lạ.
Và sự điên
cuồng không cho phép
Một điều
gì tôi được mang theo
(Dù cho
tôi có nài nỉ, yêu cầu
Dù tôi có
van xin nằng nặc).
Không đôi
mắt của con tôi khủng khiếp –
Sự khổ đau
đã hoá đá khô cằn
Không
ngày, khi đổ xuống cơn giông
Không giờ
trong nhà tù gặp mặt.
Không dịu
dàng của bàn tay hơi mát
Không
chiếc bóng bồi hồi của những cây gia
Không
tiếng động nhẹ nhàng ở rất xa –
Là những
lời an ủi lần sau chót.
4-5-1940
10
Hành
hình
Nhìn thấy Con nằm trong mộ
xin Mẹ đừng nức nở về Con.
______________
xin Mẹ đừng nức nở về Con.
______________
Dàn đồng
ca thiên thần ca tụng Chúa
Và bầu
trời trong ánh lửa cháy lên
Nói với
Cha: “Sao Cha nỡ bỏ Con!”
Còn với Mẹ: “Xin Mẹ đừng nức nở…”
1938
-----------
Mari
Ma-đơ-len nức nở, thổn thức lên
Người học
trò dấu yêu hoá đá
Và Đức Mẹ
đứng lặng im nơi đó
Không một
ai dám ngước mắt nhìn.
1940
Lời kết
1
Tôi nhận ra những gương mặt tóp vào
Dưới những mí mắt ánh lên nỗi sợ
Như trên trang giấy biết hình văn tự
Trên những má kia hiện nỗi khổ đau.
Như những mái tóc từ tro bụi, đen màu
Rồi bỗng nhiên hoá thành màu bạc trắng
Nụ cười héo trên đôi môi ngoan ngoãn
Trong nụ cười khô nỗi sợ hãi run lên.
Tôi cầu nguyện không chỉ cho một mình
Mà cho tất cả những ai cùng ở đó
Trong nắng hè, giữa mùa đông băng giá
Dưới bức tường màu đỏ mắt mù thêm.
2
Thêm lần nữa giờ tưởng niệm đến gần
Tôi nghe, nhìn và cảm những người ở đấy:
Một người, chắc gì bên cửa sổ người ta dẫn tới
Một người, trên đất không giẫm chân lên.
Và một người, mái đầu đẹp rung rung
Nói rằng: “Đến đây, như về nhà vậy”.
Tôi muốn tên tất cả mọi người được gọi
Nhưng không còn danh sách, biết đâu tìm.
Dành cho họ tôi dệt như là tấm vải
Từ những lời nghèo nghe ở họ mà thôi.
Tôi nhớ đến họ, thường xuyên và khắp nơi
Không quên họ cả trong tai họa mới.
Và nếu miệng tôi người ta bắt khoá lại
Không nói ra lời muốn nói trăm triệu dân.
Thì cứ để cho người ta sẽ nhắc tên
Trước cái ngày làm giỗ cho tôi vậy.
Và ở đất nước này, một lúc nào đấy
Người ta nghĩ rằng sẽ dựng tượng của tôi.
Tôi xin trân trọng, rất cám ơn điều này
Nhưng chỉ với một điều – xin đừng dựng tượng
Ở nơi tôi sinh ra – gần bên bờ biển
Mối liên hệ với biển khơi đã không còn
Và cũng không ở nơi kín đáo trong vườn
Nơi chiếc bóng an ủi sẽ đi tìm kiếm
Mà ở đây, nơi ba trăm giờ tôi đã đứng
Nơi bao giờ cửa cũng đóng với tôi.
Và tôi sợ rằng trong cái chết mừng vui
Quên những xe chở tù màu đen vang động.
Quên rằng tôi đã đập cửa trong ngày xa vắng
Rằng bà già đã tru lên như con thú bị thương.
Và mặc cho sự bất động của thế kỉ đồng
Dòng nước mắt tuôn ra như là băng tan chảy
Và bồ câu nhà tù sẽ hát nơi xa xôi ấy
Và những con tàu sẽ nhẹ nhàng bơi trên sóng Nêva.
10-3-1940
_______________
1- Cuộc trấn áp Yezhov (Ежовщина) hay tên gọi khác là Đại thanh trừng (tiếng Nga: Большой террор; tiếng Anh: The Great Terror) – là đỉnh cao của những cuộc thanh trừng của Stalin trong các năm 1937 – 1938. Tên gọi này lấy theo tên của Nicolai Yezhov (1895 – 1940), người giữ chức vụ tương đương với Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Cơ quan An ninh Liên Xô thời đó.
2 - Những xe đen đúa chở người tù (черных марусь - trong nguyên bản)
3 - Đồng hồ Chuông điện – tức Đồng hồ Chuông điện Kremlin; như vợ những ông quan bị hành quyết – tức vợ của những sĩ quan trong vụ nổi loạn Streltsy (Стрелецкий бунт) năm 1698 chống lại Pie I Đại đế. Vụ nổi loạn bị dập tắt và hàng nghìn người đã bị hành quyết.
4 -Chồng dưới mộ, con trai nơi tù ngục – đây là chồng đầu tiên Nikolai Gumilyov (1886 – 1921) bị xử bắn năm 1921 và đứa con trai duy nhất với ông là Lev Gumilyov cũng bị bắt đi tù.
5 - Khu làng sang trọng – tức Tsarskoye Selo.
10-3-1940
Dưới những mí mắt ánh lên nỗi sợ
Như trên trang giấy biết hình văn tự
Trên những má kia hiện nỗi khổ đau.
Như những mái tóc từ tro bụi, đen màu
Rồi bỗng nhiên hoá thành màu bạc trắng
Nụ cười héo trên đôi môi ngoan ngoãn
Trong nụ cười khô nỗi sợ hãi run lên.
Tôi cầu nguyện không chỉ cho một mình
Mà cho tất cả những ai cùng ở đó
Trong nắng hè, giữa mùa đông băng giá
Dưới bức tường màu đỏ mắt mù thêm.
2
Thêm lần nữa giờ tưởng niệm đến gần
Tôi nghe, nhìn và cảm những người ở đấy:
Một người, chắc gì bên cửa sổ người ta dẫn tới
Một người, trên đất không giẫm chân lên.
Và một người, mái đầu đẹp rung rung
Nói rằng: “Đến đây, như về nhà vậy”.
Tôi muốn tên tất cả mọi người được gọi
Nhưng không còn danh sách, biết đâu tìm.
Dành cho họ tôi dệt như là tấm vải
Từ những lời nghèo nghe ở họ mà thôi.
Tôi nhớ đến họ, thường xuyên và khắp nơi
Không quên họ cả trong tai họa mới.
Và nếu miệng tôi người ta bắt khoá lại
Không nói ra lời muốn nói trăm triệu dân.
Thì cứ để cho người ta sẽ nhắc tên
Trước cái ngày làm giỗ cho tôi vậy.
Và ở đất nước này, một lúc nào đấy
Người ta nghĩ rằng sẽ dựng tượng của tôi.
Tôi xin trân trọng, rất cám ơn điều này
Nhưng chỉ với một điều – xin đừng dựng tượng
Ở nơi tôi sinh ra – gần bên bờ biển
Mối liên hệ với biển khơi đã không còn
Và cũng không ở nơi kín đáo trong vườn
Nơi chiếc bóng an ủi sẽ đi tìm kiếm
Mà ở đây, nơi ba trăm giờ tôi đã đứng
Nơi bao giờ cửa cũng đóng với tôi.
Và tôi sợ rằng trong cái chết mừng vui
Quên những xe chở tù màu đen vang động.
Quên rằng tôi đã đập cửa trong ngày xa vắng
Rằng bà già đã tru lên như con thú bị thương.
Và mặc cho sự bất động của thế kỉ đồng
Dòng nước mắt tuôn ra như là băng tan chảy
Và bồ câu nhà tù sẽ hát nơi xa xôi ấy
Và những con tàu sẽ nhẹ nhàng bơi trên sóng Nêva.
10-3-1940
_______________
1- Cuộc trấn áp Yezhov (Ежовщина) hay tên gọi khác là Đại thanh trừng (tiếng Nga: Большой террор; tiếng Anh: The Great Terror) – là đỉnh cao của những cuộc thanh trừng của Stalin trong các năm 1937 – 1938. Tên gọi này lấy theo tên của Nicolai Yezhov (1895 – 1940), người giữ chức vụ tương đương với Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Cơ quan An ninh Liên Xô thời đó.
2 - Những xe đen đúa chở người tù (черных марусь - trong nguyên bản)
3 - Đồng hồ Chuông điện – tức Đồng hồ Chuông điện Kremlin; như vợ những ông quan bị hành quyết – tức vợ của những sĩ quan trong vụ nổi loạn Streltsy (Стрелецкий бунт) năm 1698 chống lại Pie I Đại đế. Vụ nổi loạn bị dập tắt và hàng nghìn người đã bị hành quyết.
4 -Chồng dưới mộ, con trai nơi tù ngục – đây là chồng đầu tiên Nikolai Gumilyov (1886 – 1921) bị xử bắn năm 1921 và đứa con trai duy nhất với ông là Lev Gumilyov cũng bị bắt đi tù.
5 - Khu làng sang trọng – tức Tsarskoye Selo.
10-3-1940
Pеквием
Нет, и не под чуждым небосводом,
И не под защитой чуждых крыл,-
Я была тогда с моим народом,
Там, где мой народ, к несчастью, был.
1961
Вместо предисловия
В страшные годы ежовщины я провела семнадцать месяцев в
тюремных очередях в Ленинграде. Как-то раз кто-то "опознал" меня.
Тогда стоящая за мной женщина, которая, конечно, никогда не слыхала моего
имени, очнулась от свойственного нам всем оцепенения и спросила меня на ухо
(там все говорили шепотом):
- А это вы можете описать?
И я сказала:
- Могу.
Тогда что-то вроде улыбки скользнуло по тому, что некогда
было ее лицом.
1 апреля 1957, Ленинград
Посвящение
Перед этим горем гнутся горы,
Не течет великая река,
Но крепки тюремные затворы,
А за ними "каторжные норы"
И смертельная тоска.
Для кого-то веет ветер свежий,
Для кого-то нежится закат -
Мы не знаем, мы повсюду те же,
Слышим лишь ключей постылый скрежет
Да шаги тяжелые солдат.
Подымались как к обедне ранней,
По столице одичалой шли,
Там встречались, мертвых бездыханней,
Солнце ниже, и Нева туманней,
А надежда все поет вдали.
Приговор... И сразу слезы хлынут,
Ото всех уже отделена,
Словно с болью жизнь из сердца вынут,
Словно грубо навзничь опрокинут,
Но идет... Шатается... Одна...
Где теперь невольные подруги
Двух моих осатанелых лет?
Что им чудится в сибирской вьюге,
Что мерещится им в лунном круге?
Им я шлю прощальный свой привет.
Март 1940
Вступление
Это было, когда улыбался
Только мертвый, спокойствию рад.
И ненужным привеском качался
Возле тюрем своих Ленинград.
И когда, обезумев от муки,
Шли уже осужденных полки,
И короткую песню разлуки
Паровозные пели гудки,
Звезды смерти стояли над нами,
И безвинная корчилась Русь
Под кровавыми сапогами
И под шинами черных марусь.
1
Уводили тебя на рассвете,
За тобой, как на выносе, шла,
В темной горнице плакали дети,
У божницы свеча оплыла.
На губах твоих холод иконки,
Смертный пот на челе... Не забыть!
Буду я, как стрелецкие женки,
Под кремлевскими башнями выть.
[Ноябрь] 1935, Москва
2
Тихо льется тихий Дон,
Желтый месяц входит в дом.
Входит в шапке набекрень,
Видит желтый месяц тень.
Эта женщина больна,
Эта женщина одна.
Муж в могиле, сын в тюрьме,
Помолитесь обо мне.
1938
3
Нет, это не я, это кто-то другой страдает.
Я бы так не могла, а то, что случилось,
Пусть черные сукна покроют,
И пусть унесут фонари...
Ночь.
1939
4
Показать бы тебе, насмешнице
И любимице всех друзей,
Царскосельской веселой грешнице,
Что случится с жизнью твоей -
Как трехсотая, с передачею,
Под Крестами будешь стоять
И своею слезою горячею
Новогодний лед прожигать.
Там тюремный тополь качается,
И ни звука - а сколько там
Неповинных жизней кончается...
1938
5
Семнадцать месяцев кричу,
Зову тебя домой,
Кидалась в ноги палачу,
Ты сын и ужас мой.
Все перепуталось навек,
И мне не разобрать
Теперь, кто зверь, кто человек,
И долго ль казни ждать.
И только пыльные цветы,
И звон кадильный, и следы
Куда-то в никуда.
И прямо мне в глаза глядит
И скорой гибелью грозит
Огромная звезда.
1939
6
Легкие летят недели,
Что случилось, не пойму.
Как тебе, сынок, в тюрьму
Ночи белые глядели,
Как они опять глядят
Ястребиным жарким оком,
О твоем кресте высоком
И о смерти говорят.
Весна 1939
Приговор
7
И упало каменное слово
На мою еще живую грудь.
Ничего, ведь я была готова,
Справлюсь с этим как-нибудь.
У меня сегодня много дела:
Надо память до конца убить,
Надо, чтоб душа окаменела,
Надо снова научиться жить.
А не то... Горячий шелест лета,
Словно праздник за моим окном.
Я давно предчувствовала этот
Светлый день и опустелый дом.
[22 июня] 1939, Фонтанный Дом
К смерти
8
Ты все равно придешь - зачем же не теперь?
Я жду тебя - мне очень трудно.
Я потушила свет и отворила дверь
Тебе, такой простой и чудной.
Прими для этого какой угодно вид,
Ворвись отравленным снарядом
Иль с гирькой подкрадись, как опытный бандит,
Иль отрави тифозным чадом.
Иль сказочкой, придуманной тобой
И всем до тошноты знакомой,-
Чтоб я увидела верх шапки голубой
И бледного от страха управдома.
Мне все равно теперь. Клубится Енисей,
Звезда Полярная сияет.
И синий блеск возлюбленных очей
Последний ужас застилает.
19 августа 1939, Фонтанный Дом
9
Уже безумие крылом
Души накрыло половину,
И поит огненным вином
И манит в черную долину.
И поняла я, что ему
Должна я уступить победу,
Прислушиваясь к своему
Уже как бы чужому бреду.
И не позволит ничего
Оно мне унести с собою
(Как ни упрашивай его
И как ни докучай мольбою):
Ни сына страшные глаза -
Окаменелое страданье,
Ни день, когда пришла гроза,
Ни час тюремного свиданья,
Ни милую прохладу рук,
Ни лип взволнованные тени,
Ни отдаленный легкий звук -
Слова последних утешений.
4 мая 1940, Фонтанный Дом
Распятие
10
Не рыдай Мене, Мати,
во гробе зрящия.
----
Хор ангелов великий час восславил,
И небеса расплавились в огне.
Отцу сказал: "Почто Меня оставил!"
А матери: "О, не рыдай Мене..."
1938
Магдалина билась и рыдала,
Ученик любимый каменел,
А туда, где молча Мать стояла,
Так никто взглянуть и не посмел.
1940, Фонтанный Дом
Эпилог
I
Узнала я, как опадают лица,
Как из-под век выглядывает страх,
Как клинописи жесткие страницы
Страдание выводит на щеках,
Как локоны из пепельных и черных
Серебряными делаются вдруг,
Улыбка вянет на губах покорных,
И в сухоньком смешке дрожит испуг.
И я молюсь не о себе одной,
А обо всех, кто там стоял со мною,
И в лютый холод, и в июльский зной
Под красною ослепшею стеною.
II
Опять поминальный приблизился час.
Я вижу, я слышу, я чувствую вас:
И ту, что едва до окна довели,
И ту, что родимой не топчет земли,
И ту, что красивой тряхнув головой,
Сказала: "Сюда прихожу, как домой".
Хотелось бы всех поименно назвать,
Да отняли список, и негде узнать.
Для них соткала я широкий покров
Из бедных, у них же подслушанных слов.
О них вспоминаю всегда и везде,
О них не забуду и в новой беде,
И если зажмут мой измученный рот,
Которым кричит стомильонный народ,
Пусть так же они поминают меня
В канун моего поминального дня.
А если когда-нибудь в этой стране
Воздвигнуть задумают памятник мне,
Согласье на это даю торжество,
Но только с условьем - не ставить его
Ни около моря, где я родилась:
Последняя с морем разорвана связь,
Ни в царском саду у заветного пня,
Где тень безутешная ищет меня,
А здесь, где стояла я триста часов
И где для меня не открыли засов.
Затем, что и в смерти блаженной боюсь
Забыть громыхание черных марусь,
Забыть, как постылая хлопала дверь
И выла старуха, как раненый зверь.
И пусть с неподвижных и бронзовых век
Как слезы, струится подтаявший снег,
И голубь тюремный пусть гулит вдали,
И тихо идут по Неве корабли.
1935-1940
143. LỜI CHÚC RƯỢU CUỐI CÙNG
Tôi uống cho ngôi nhà đổ nát
Cho cuộc đời độc ác của tôi
Cho sự cô đơn của hai người
Và cho anh
tôi chúc, -
Vì gian
dối của bờ môi
Vì vẻ lạnh
lùng đôi mắt
Vì cuộc
đời thô bạo và ác độc
Vì không
cứu rỗi Đức Chúa Trời.
1934
Последний тост
Я пью за разоренный дом,
За злую жизнь мою,
За одиночество вдвоем,
И за тебя я пью,—
За ложь меня предавших губ,
За мертвый холод глаз,
За то, что мир жесток и груб,
За то, что Бог не спас.
1934
144. MAIAKOVSKY NĂM 1913
Tôi đã không biết anh trong vinh quang của mình
Chỉ nhớ rằng anh dồi dào sinh lực
Nhưng có thể, ngày hôm nay, quả thực
Tôi nhớ về những ngày tháng xa xăm.
Trong thơ
anh mạnh mẽ những tiếng vang
Những
giọng nói rất chi là mới mẻ
Không hề
lười biếng những bàn tay trẻ
Anh xây
nên khủng khiếp những cánh rừng.
Cứ ngỡ
rằng những gì thuộc về anh
Không như
những gì có từ trước đó
Những gì
anh đả phá – đều sụp đổ
Trong mỗi
lời một bản án vang lên.
Anh cô độc
và thường không bằng lòng
Anh sốt
ruột và hối thúc phận số
Anh biết
rằng sắp tới đời vui vẻ
Anh kiên
cường trong một cuộc đấu tranh.
Và tiếng
dội về của nước triều lên
Nghe rõ
ràng mỗi khi mà anh đọc
Mưa giận
dữ quất vào đôi con mắt
Với mọi
người anh tranh luận rất hăng.
Và khi hãy
còn một cái tên chưa quen
Tia chớp
lóe lên trong phòng oi ả
Để bây giờ
cả nước còn gìn giữ
Lời vang
lên như hiệu lệnh đấu tranh.
3-1940
Маяковский в 1913 году
Я тебя в твоей не знала славе,
Помню только бурный твой расцвет,
Но, быть может, я сегодня вправе
Вспомнить день тех отдаленных лет.
Как в стихах твоих крепчали звуки,
Новые роились голоса...
Не ленились молодые руки,
Грозные ты возводил леса.
Все, чего касался ты, казалось
Не таким, как было до тех пор,
То, что разрушал ты,- разрушалось,
В каждом слове бился приговор.
и часто недоволен,
С нетерпеньем торопил судьбу,
Знал, что скоро выйдешь весел, волен
На свою великую борьбу.
И уже отзывный гул прилива
Слышался, когда ты нам читал,
Дождь косил свои глаза гневливо,
С городом ты в буйный спор вступал.
И еще не слышанное имя
Молнией влетело в душный зал,
Чтобы ныне, всей страной хранимо,
Зазвучать, как боевой сигнал.
1940
145.EM TỪNG LÀ MÙA XUÂN
Em từng là mùa xuân, là khúc hát của anh
Và sau đó diệu kỳ hơn thế nữa
Còn giờ đây em không có trên trần.
1958
Я была тебе весной и песней
Я была тебе весной и песней,
А потом была еще чудесней,
А теперь меня на свете нет.
1958
146. ĐÊM CỦA EM – CƠN MÊ SẢNG VỀ ANH
Đêm của em – cơn mê sảng về anh
Ngày chỉ hững hờ – thôi thì cứ mặc!
Em đã mỉm cười cám ơn số kiếp
Đã gửi cho em một nỗi u buồn.
Cơn say hôm qua nặng nề vô cùng
Có thể sắp tới đây em cháy hết
Em cứ ngỡ đám cháy này thiêu đốt
Sẽ không biến thành một buổi bình minh.
Em cháy lên trong lửa có lâu không
Nguyền rủa người dưng một cách bí mật?
Trong cái bẫy của em rất khủng khiếp
Rồi đây anh sẽ chẳng nhìn thấy em.
1909
Ночь моя - бред о тебе
Ночь моя - бред о тебе,
День - равнодушное: пусть!
Я улыбнулась судьбе,
Мне посылающей грусть.
Тяжек вчерашний угар,
Скоро ли я догорю,
Кажется, этот пожар
Не превратится в зарю.
Долго ль мне бится в огне,
Дальнего тайно кляня?..
В страшной моей западне
Ты не увидишь меня.
1909
Đêm của em – cơn mê sảng về anh
Ngày chỉ hững hờ – thôi thì cứ mặc!
Em đã mỉm cười cám ơn số kiếp
Đã gửi cho em một nỗi u buồn.
Cơn say hôm qua nặng nề vô cùng
Có thể sắp tới đây em cháy hết
Em cứ ngỡ đám cháy này thiêu đốt
Sẽ không biến thành một buổi bình minh.
Em cháy lên trong lửa có lâu không
Nguyền rủa người dưng một cách bí mật?
Trong cái bẫy của em rất khủng khiếp
Rồi đây anh sẽ chẳng nhìn thấy em.
1909
Ночь моя - бред о тебе
Ночь моя - бред о тебе,
День - равнодушное: пусть!
Я улыбнулась судьбе,
Мне посылающей грусть.
Тяжек вчерашний угар,
Скоро ли я догорю,
Кажется, этот пожар
Не превратится в зарю.
Долго ль мне бится в огне,
Дальнего тайно кляня?..
В страшной моей западне
Ты не увидишь меня.
1909
147. GỬI NHỮNG NGƯỜI CHIẾN THẮNG
Sau lưng là Khải hoàn môn Narva
Còn phía trước chỉ còn là cái chết
Lính bộ binh Xô Viết vẫn xông ra
Trước những cỗ pháo kinh hoàng của Đức.
Có những cuốn sách viết về các anh:
“Hy sinh đời mình vì bao người khác”
Những người đàn ông vô cùng chất phác –
Những
Ivan, Vasily, Aleksey, Grigory
Những
cháu, con, những anh em, chú bác!
1944
_____________
*Khải hoàn
môn Narva ở St. Petersburg; pháo kinh hoàng của Đức (Берт
trong nguyên bản) – tác giả nhắc đến một loại pháo lớn của Đức trong Thế chiến
I (Big Bertha).
Победителям
Сзади Нарвские были ворота,
Впереди была только смерть...
Так советская шла пехота
Прямо в желтые жерла «Берт».
Вот о вас и напишут книжки:
«Жизнь свою за други своя»,
Незатейливые парнишки —
Ваньки, Васьки, Алешки, Гришки, —
Внуки, братики, сыновья!
1944
148. TƯỞNG NHỚ A. BLOK
Anh nói đúng – lại hiệu thuốc, đèn lồng
Sông Nhê-va, im lặng, đá hoa cương…
Như tượng đài của buổi đầu thế kỷ
Ở chốn này con người ấy đứng yên.
Khi anh từ giã ngôi nhà Puskin
Phút chia
ly giơ vẫy bàn tay mình
Và tiếp
nhận vẻ rã rời chết chóc
Như nhận
về vẻ tĩnh lặng bị oan.
1946
Памяти Александра Блока
Он прав - опять фонарь, аптека,
Нева, безмолвие, гранит...
Как памятник началу века,
Там этот человек стоит -
Когда он Пушкинскому Дому,
Прощаясь, помахал рукой
И принял смертную истому
Как незаслуженный покой.
1946
149. MÙA THỨ NĂM CỦA NĂM
Hãy ca tụng, tán dương
Mùa thứ năm của năm.
Hãy thở tự do cuối
Bởi vì đấy là tình.
Bay cao giữa trời xanh
Hình vạn vật nhẹ nhàng
Thân xác thôi kỷ niệm
Nỗi buồn tròn một năm.
1913
То пятое время года
То пятое время года,
Только его славословь.
Дыши последней свободой,
Оттого, что это — любовь.
Высоко небо взлетело,
Легки очертанья вещей,
И уже не празднует тело
Годовщину грусти своей.
1913
150. PUSKIN
Ai biết được thế nào là vinh quang!
Bằng giá nào ông mua được quyền hành
Là khả năng hay đấy là ân sủng
Mà ông từng láu lỉnhvà khôn ngoan
Đùa với tất cả, lặng im bí ẩn
Gọi sự vật – đúng tên gọi của mình?...
1943
Пушкин
Кто знает, что такое слава!
Какой ценой купил он право,
Возможность или благодать
Над всем так мудро и лукаво
Шутить, таинственно молчать
И ногу ножкой называть.
1943
151. TÔI CÓ MỘT NỤ CƯỜI
Tôi có một nụ cười
Đó là sự chuyển động của bờ môi.
Chỉ vì anh mà tôi gìn giữ nó -
Bởi vì tình yêu nó ban tặng cho tôi.
Mặc dù anh dữ dằn và trắng trợn
Mặc dù anh giờ đây vẫn yêu người.
Bàn thờ màu vàng đang trước mặt tôi
Và bên tôi – chàng rể đôi mắt xám.
1913
У меня есть улыбка одна
У меня есть улыбка одна.
Так. Движенье чуть видное губ.
Для тебя я ее берегу -
Ведь она мне любовью дана.
Все равно, чтоты наглый и злой,
Все равно, что ты любишь других.
Предо мной золотой аналой,
И со мной сероглазый жених.
1913
152. VÀ VINH QUANG NHƯ THIÊN NGA BƠI LỘI
Và vinh quang như thiên nga bơi lội
Xuyên qua làn khói màu vàng
Còn anh, tình yêu ơi, mãi mãi
Vẫn là điều thất vọng của em.
1911-1919
И слава лебедью плыла
И слава лебедью плыла
Сквозь золотистый дым.
А ты, любовь, всегда была
Отчаяньем моим.
1911-1919
153. TẤT NHIÊN LÀ NIỀM VUI TÔI CÓ ÍT
Tất nhiên là niềm vui tôi có ít
Vì đời bão giông vốn đã dành cho
Nhưng mà tôi lại tình cờ được biết
Niềm hạnh phúc có những con mắt gì…
1920?
Конечно, мне радости мало
Конечно, мне радости мало
Такая сулила гроза,
Зато я случайно узнала,
Какие у счастья глаза…
1920?
154. ÔI, CÓ NHỮNG LỜI LÀ DUY NHẤT
Ôi, có những lời là duy nhất
Ai nói ra – đã phải bỏ quá nhiều.
Chỉ màu của trời xanh là bất tuyệt
Và lòng từ bi của Đấng Tối Cao.
1916
О, есть неповторимые слова
О, есть неповторимые слова,
Кто их сказал — истратил слишком много.
Неистощима только синева
Небесная и милосердье Бога.
1916
155. TÔI KHÔNG CẦN NIỀM HẠNH PHÚC NHO NHỎ
Tôi không cần niềm hạnh phúc nho nhỏ
Nên tôi tiễn chồng đến với người yêu*
Đứa con tôi mệt mỏi, vẫn cưng chiều
Tôi sẽ ru con ngủ.
Và lần nữa trong căn phòng lạnh lẽo
Tôi lại nguyện cầu Đức Mẹ đồng trinh
Quả thật khó sống cuộc đời ẩn náu
Mà làm người vui vẻ lại khó hơn.
Chỉ mong giấc mơ như lửa cháy lên
Để tôi sẽ bước vào một ngôi đền
Đá màu trắng và có năm ngọn tháp
Theo lối mòn đã ghi khắc trong tim.
1914
___________
*Theo lời của chính Akhmatova thì bài thơ này viết trong thời kỳ Nicolai Gumilyov yêu Tatyana Adamovich.
Мне не надо счастья малого
Мне не надо счастья малого,
Мужа к милой провожу
И, довольного, усталого,
Спать ребенка уложу.
Снова мне в прохладной горнице
Богородицу молить…
Трудно, трудно жить затворницей,
Да трудней веселой быть.
Только б сон приснился пламенный,
Как войду в нагорный храм,
Пятиглавый, белый, каменный,
По запомненным тропам.
1914
156. ANH CÓ MUỐN BIẾT VỀ CHUYỆN ĐÃ TỪNG
Anh có muốn biết về chuyện đã từng?
Đồng hồ điểm ba giờ trong phòng ăn
Nàng vịn tay vào lan can, giã biệt
Và nói những lời một cách khó nhọc:
“Chuyện là thế… Ồ không, em đã quên
Em yêu anh, em đã từng yêu anh
Từ cái ngày xa lắc!” –
“Vâng”?...
1910
Хочешь знать, как всё это было?
…Хочешь знать, как всё это было? —
Три в столовой пробило,
И, прощаясь, держась за перила,
Она словно с трудом говорила:
«Это всё… Ах нет, я забыла,
Я люблю вас, я вас любила
Ещё тогда!» —
«Да»?!…
1910
157. ANH ĐÃ TỪNG YÊU BA THỨ TRÊN TRẦN
Anh đã từng yêu ba thứ trên trần:
Yêu tiếng hát nhà thờ, những con công màu trắng
Yêu những bản đồ châu Mỹ cổ xưa đã mờ nhạt hẳn.
Và chẳng hề thích tiếng khóc của trẻ con
Chẳng thích uống trà với mứt đùm đũm
Và không thích phụ nữ nổi tam bành
…Thế mà tôi từng là vợ của anh.
1910
Он любил три вещи на свете
Он любил три вещи на свете:
За вечерней п Он любил три вещи на свете енье, белых павлинов
И стертые карты Америки.
Не любил, когда плачут дети,
Не любил чая с малиной
И женской истерики
...А я была его женой.
1910
158. BẠN KHÔNG ĐOÁN RA NÓ NGAY LẬP TỨC
Bạn không đoán ra nó ngay lập tức
Thứ bệnh dịch khủng khiếp và tối tăm
Thứ mà người ta gọi rất dịu dàng
Thứ mà thường vẫn làm cho người chết.
Dấu hiệu đầu tiên – vui rất lạ lùng
Tựa hồ như vừa uống vào rượu đắng
Dấu hiệu thứ hai – buồn rất kinh khủng
Không thể thở ra và mệt vô cùng.
Dấu hiệu thứ ba – là chân thật nhất:
Nếu như con tim chết lặng thường xuyên
Ngọn nến cháy trong ánh mắt mù sương
Thì nghĩa là – một buổi chiều gặp mặt…
Điều linh cảm trong đêm làm bạn mệt:
Bạn thấy trên người bạn một thiên thần.
Mà gương mặt thiên thần bạn rất quen…
Và vẻ mệt mỏi vô cùng ngột ngạt.
Có một bức màn màu đen bằng vải
Giấc mơ nặng nề và sẽ không lâu…
Sáng thức dậy với điều bí ẩn mới
Không rõ ràng mà cũng chẳng ngọt ngào.
Và bạn sẽ rửa bằng dòng máu xối
Là thứ người ta vẫn gọi là TÌNH.
1910
Угадаешь ты ее не сразу
Угадаешь ты ее не сразу
Жуткую и темную заразу,
Ту, что люди нежно называют,
От которой люди умирают.
Первый признак - странное веселье,
Словно ты пила хмельное зелье,
А второй - печаль, печаль такая,
Что нельзя вздохнуть, изнемогая,
Только третий - самый настоящий:
Если сердце замирает чаще
И горят в туманном взоре свечи,
Это значит - вечер новой встречи...
Ночью ты предчувствием томима:
Над собой увидишь Серафима.
А лицо его тебе знакомо...
И накинет душная истома
На тебя атласный черный полог.
Будет сон твой тяжек и недолог...
А наутро встанешь с новою загадкой,
Но уже не ясной и не сладкой,
И омоешь пыточною кровью
То, что люди назвали любовью.
1910
159. NHƯ MỘT CỌNG RƠM ANH UỐNG HỒN EM
Như một cọng rơm, anh uống hồn em
Em biết rằng hương vị cay và đắng
Nhưng không vi phạm lời đồn tra tấn
Ô, sự tĩnh lặng của em đã nhiều tuần.
Khi kết thúc, anh hãy nói. Đừng buồn
Rằng hồn em trên đời không còn nữa
Em sẽ ra đi bằng con đường ngắn ngủi
Và để xem trò chơi của trẻ con.
Phúc bồn tử gai nở hoa tưng bừng
Và người ta chở gạch sau bờ giậu
Anh là ai: người anh hay người tình
Em không nhớ mà cũng không cần nhớ.
Ở đây vô gia cư, ở đây sáng sủa
Đang nghỉ ngơi thân thể mệt rã rời…
Còn người qua đường nghĩ rất mơ hồ:
Chỉ vừa hôm qua đã thành góa bụa.
1911
Как соломинкой, пьёшь мою душу
Как соломинкой, пьёшь мою душу.
Знаю, вкус её горек и хмелен.
Но я пытку мольбой не нарушу.
О, покой мой многонеделен.
Когда кончишь, скажи. Не печально,
Что души моей нет на свете.
Я пойду дорогой недальней
Посмотреть, как играют дети.
На кустах зацветает крыжовник,
И везут кирпичи за оградой.
Кто ты: брат мой или любовник,
Я не помню, и помнить не надо.
Как светло здесь и как бесприютно,
Отдыхает усталое тело…
А прохожие думают смутно:
Верно, только вчера овдовела.
1911
Konstantin Mochulsky
Aleksandr Arkhangelsky
Vladimir Nabokov
Aleksandr Blok
Joseph Brodsky
Evgeny Evtushenko
Xem thêm:
154. ÔI, CÓ NHỮNG LỜI LÀ DUY NHẤT
Ôi, có những lời là duy nhất
Ai nói ra – đã phải bỏ quá nhiều.
Chỉ màu của trời xanh là bất tuyệt
Và lòng từ bi của Đấng Tối Cao.
1916
О, есть неповторимые слова
О, есть неповторимые слова,
Кто их сказал — истратил слишком много.
Неистощима только синева
Небесная и милосердье Бога.
1916
155. TÔI KHÔNG CẦN NIỀM HẠNH PHÚC NHO NHỎ
Tôi không cần niềm hạnh phúc nho nhỏ
Nên tôi tiễn chồng đến với người yêu*
Đứa con tôi mệt mỏi, vẫn cưng chiều
Tôi sẽ ru con ngủ.
Và lần nữa trong căn phòng lạnh lẽo
Tôi lại nguyện cầu Đức Mẹ đồng trinh
Quả thật khó sống cuộc đời ẩn náu
Mà làm người vui vẻ lại khó hơn.
Chỉ mong giấc mơ như lửa cháy lên
Để tôi sẽ bước vào một ngôi đền
Đá màu trắng và có năm ngọn tháp
Theo lối mòn đã ghi khắc trong tim.
1914
___________
*Theo lời của chính Akhmatova thì bài thơ này viết trong thời kỳ Nicolai Gumilyov yêu Tatyana Adamovich.
Мне не надо счастья малого
Мне не надо счастья малого,
Мужа к милой провожу
И, довольного, усталого,
Спать ребенка уложу.
Снова мне в прохладной горнице
Богородицу молить…
Трудно, трудно жить затворницей,
Да трудней веселой быть.
Только б сон приснился пламенный,
Как войду в нагорный храм,
Пятиглавый, белый, каменный,
По запомненным тропам.
1914
156. ANH CÓ MUỐN BIẾT VỀ CHUYỆN ĐÃ TỪNG
Anh có muốn biết về chuyện đã từng?
Đồng hồ điểm ba giờ trong phòng ăn
Nàng vịn tay vào lan can, giã biệt
Và nói những lời một cách khó nhọc:
“Chuyện là thế… Ồ không, em đã quên
Em yêu anh, em đã từng yêu anh
Từ cái ngày xa lắc!” –
“Vâng”?...
1910
Хочешь знать, как всё это было?
…Хочешь знать, как всё это было? —
Три в столовой пробило,
И, прощаясь, держась за перила,
Она словно с трудом говорила:
«Это всё… Ах нет, я забыла,
Я люблю вас, я вас любила
Ещё тогда!» —
«Да»?!…
1910
157. ANH ĐÃ TỪNG YÊU BA THỨ TRÊN TRẦN
Anh đã từng yêu ba thứ trên trần:
Yêu tiếng hát nhà thờ, những con công màu trắng
Yêu những bản đồ châu Mỹ cổ xưa đã mờ nhạt hẳn.
Và chẳng hề thích tiếng khóc của trẻ con
Chẳng thích uống trà với mứt đùm đũm
Và không thích phụ nữ nổi tam bành
…Thế mà tôi từng là vợ của anh.
1910
Он любил три вещи на свете
Он любил три вещи на свете:
За вечерней п Он любил три вещи на свете енье, белых павлинов
И стертые карты Америки.
Не любил, когда плачут дети,
Не любил чая с малиной
И женской истерики
...А я была его женой.
1910
158. BẠN KHÔNG ĐOÁN RA NÓ NGAY LẬP TỨC
Bạn không đoán ra nó ngay lập tức
Thứ bệnh dịch khủng khiếp và tối tăm
Thứ mà người ta gọi rất dịu dàng
Thứ mà thường vẫn làm cho người chết.
Dấu hiệu đầu tiên – vui rất lạ lùng
Tựa hồ như vừa uống vào rượu đắng
Dấu hiệu thứ hai – buồn rất kinh khủng
Không thể thở ra và mệt vô cùng.
Dấu hiệu thứ ba – là chân thật nhất:
Nếu như con tim chết lặng thường xuyên
Ngọn nến cháy trong ánh mắt mù sương
Thì nghĩa là – một buổi chiều gặp mặt…
Điều linh cảm trong đêm làm bạn mệt:
Bạn thấy trên người bạn một thiên thần.
Mà gương mặt thiên thần bạn rất quen…
Và vẻ mệt mỏi vô cùng ngột ngạt.
Có một bức màn màu đen bằng vải
Giấc mơ nặng nề và sẽ không lâu…
Sáng thức dậy với điều bí ẩn mới
Không rõ ràng mà cũng chẳng ngọt ngào.
Và bạn sẽ rửa bằng dòng máu xối
Là thứ người ta vẫn gọi là TÌNH.
1910
Угадаешь ты ее не сразу
Угадаешь ты ее не сразу
Жуткую и темную заразу,
Ту, что люди нежно называют,
От которой люди умирают.
Первый признак - странное веселье,
Словно ты пила хмельное зелье,
А второй - печаль, печаль такая,
Что нельзя вздохнуть, изнемогая,
Только третий - самый настоящий:
Если сердце замирает чаще
И горят в туманном взоре свечи,
Это значит - вечер новой встречи...
Ночью ты предчувствием томима:
Над собой увидишь Серафима.
А лицо его тебе знакомо...
И накинет душная истома
На тебя атласный черный полог.
Будет сон твой тяжек и недолог...
А наутро встанешь с новою загадкой,
Но уже не ясной и не сладкой,
И омоешь пыточною кровью
То, что люди назвали любовью.
1910
159. NHƯ MỘT CỌNG RƠM ANH UỐNG HỒN EM
Như một cọng rơm, anh uống hồn em
Em biết rằng hương vị cay và đắng
Nhưng không vi phạm lời đồn tra tấn
Ô, sự tĩnh lặng của em đã nhiều tuần.
Khi kết thúc, anh hãy nói. Đừng buồn
Rằng hồn em trên đời không còn nữa
Em sẽ ra đi bằng con đường ngắn ngủi
Và để xem trò chơi của trẻ con.
Phúc bồn tử gai nở hoa tưng bừng
Và người ta chở gạch sau bờ giậu
Anh là ai: người anh hay người tình
Em không nhớ mà cũng không cần nhớ.
Ở đây vô gia cư, ở đây sáng sủa
Đang nghỉ ngơi thân thể mệt rã rời…
Còn người qua đường nghĩ rất mơ hồ:
Chỉ vừa hôm qua đã thành góa bụa.
1911
Как соломинкой, пьёшь мою душу
Как соломинкой, пьёшь мою душу.
Знаю, вкус её горек и хмелен.
Но я пытку мольбой не нарушу.
О, покой мой многонеделен.
Когда кончишь, скажи. Не печально,
Что души моей нет на свете.
Я пойду дорогой недальней
Посмотреть, как играют дети.
На кустах зацветает крыжовник,
И везут кирпичи за оградой.
Кто ты: брат мой или любовник,
Я не помню, и помнить не надо.
Как светло здесь и как бесприютно,
Отдыхает усталое тело…
А прохожие думают смутно:
Верно, только вчера овдовела.
1911
Phần phụ lục (11 bài)
Người phụ nữ của
mình anh đừng lẫn
Với một người nào:
em quấn khăn lông
Còn anh muốn lẫn lộn
chỉ hoài công
Và anh ra vẻ thở
dài, than vắn.
Em giật mình kêu:
này anh, này anh!
Ô, lạy Chúa, anh
giúp cho em mấy
Em nhầm lẫn xỏ chiếc
giày bên trái
Sang bàn chân bên
phải của mình(1).
Anh thở dài, kêu
lên: An-nhiu-ta!(2)
Còn em ngồi lên bậc
thềm: – gì thế?
Anh mỉm cười rất
ghê và lặng lẽ
Rồi nói rằng: – đừng
cọ xát bành tô!
______________
(1)Chi tiết “tay phải xỏ nhầm găng tay trái” của
Akhmatova rất đặc trưng cho vẻ bối rối của người phụ nữ khi yêu, chi tiết này
rất nổi tiếng và, như ta thấy, có rất nhiều người nhại theo chi tiết này.
(2)Cách gọi âu yếm tên Anna.
Yuri Rumer
AKHMATOVA
Ngày hôm nay em vô
cùng mỏi mệt
Trong người em ngự
trị một nỗi buồn
Còn phó mát tươi
thì lại vô cùng ít
Phó mát tươi – em
nhìn thấy mà thương.
Anh bước vào như
con ốc im lặng
Sau tiếng hò reo
ngày lễ phục sinh
Em thấy yêu vô cùng
sợi chỉ trắng
Không hiểu vì sao
tuột khỏi vai anh.
Anh yêu ơi đừng gọi
là phản bội
Thiếu phó mát tươi
em buồn bã, héo hon
Còn bàn tay em thì
lại xỏ nhầm
Găng tay phải vào
bàn tay bên trái.
Konstantin Mochulsky
SÁNG HÔM THỨ TƯ ANH ĐẾN THĂM EM
Sáng hôm thứ tư anh
đến thăm em
Hai đứa mình mãi
mãi là thù nghịch.
Câu chuyện này
không bao giờ em quên
Không quên theo mỗi
bàn chân anh bước.
Em hỏi anh: “Có muốn
uống trà không?”
Anh im lặng, rồi trả
lời rằng: “Có”.
Tại vì sao em không
biết được rằng
Cứ hằng đêm em gọi
tên anh đó.
Khi ra về anh thì
thầm: “Tạm biệt”
Còn em trở nên sáng
sủa vô cùng
Trên khu vườn có tiếng
kêu thảm thiết
Của bầy chim bay lượn
giữa không trung.
Aleksandr Arkhangelsky
QUÊN SAO ĐƯỢC
Quên sao được! Giữa
cái rét ghê người
Em bước ra khỏi rừng
trong băng giá
Một chiếc xe chở củi
từ trên đồi
Đi chầm chậm vẻ chừng
rất thích thú.
Đàn chim bay có vẻ
nhẹ nhàng hơn
Một người đàn ông
ngồi trên lưng ngựa
Đôi găng tay còn
dài hơn cùi chỏ
Và chiếc áo lông đến
tận bàn chân.
Thở hổn hển, em kêu
lên: – cứ đùa!
Anh từ đâu? Trả lời!
Em run thế
Một cậu bé trả lời
em lặng lẽ:
– Bố chặt cây, còn
tôi chở củi về.
Vladimir Nabokov
EM MẶC CHIẾC VÁY MÀU ĐEN
Em mặc chiếc váy
màu đen
Dịu dàng hơn cả bà
sư nữ
Và có một cây thập
tự
Trên gối chăn lạnh
lẽo của em.
Nhưng ngọn lửa ngày
lễ Tửu thần
Đốt lên cơn mộng mị
Cái tên Georgi(1)
thầm thĩ –
Cái tên ngài bằng
vàng!
_______
(1)Georgi – tên một vị thánh của Thiên Chúa
giáo. Đây cũng là cái tên đàn ông rất phổ biến ở Nga.
Aleksandr Finkel
ANNA AKHMATOVA
Tất cả vẫn như xưa:
vẫn trời xanh
Hoa cỏ ấy vẫn mọc
trên đất ấy
Em vẫn thế, không
có gì đổi mới
Nhưng mà anh thì đã
xa em.
Em hỏi rằng: anh muốn
điều gì vậy?
Anh trả lời: nhảy
xuống tắm dưới đầm
Em cười: ấy chết,
em cảm thấy
Cả hai người thì
tai họa đó anh.
Quên sao được? Anh
bước ra háo hức
Với những hình bong
bóng nước trên tay
Và những bắp thịt
cuồn cuộn trên đùi
Đi trên cát vàng tiếng
kêu răng rắc.
Có phải là để cho
những tháng năm
Trong tình yêu cô
đơn qua được
Để anh trao cho làn
nước đục
Vẻ cổ xưa và bí ẩn
của mình?!
Con tim của em đang
lặng lẽ tắt dần
Giữa hồn em bỗng trở
nên tăm tối
Em không biết – anh
cho em xin lỗi –
Rằng thường xuyên đầu
óc nặng hơn chân.
Ô, con tim em sao
mà tăm tối lạ
Có lẽ là em đợi
phút lâm chung?
Và một mình em hóa
thành tượng đá
Trong vẻ tối tăm lạnh
lẽo trên đầm.
1914
CHIA TAY NHẸ NHÀNG
Chia tay nhẹ nhàng,
chia tay không thương tiếc
Nếu tình nhân trở
nên chán mớ đời
Nếu tình nhân – kẻ
mê gái không thôi…
… Chiếc khăn
Akhmatova lên cổ mình, tôi quấn…
Và với những bài
thơ như điều giáo huấn…
Thơ về A. Akhmatova
Aleksandr Blok
TẶNG ANNA AKHMATOVA
“Vẻ đẹp kinh hoàng”
– người ta bảo chị
Còn chị chiếc khăn
Tây Ban Nha
Quàng lên vai mình
rất khẽ
Và trên mái tóc – một
bông hoa.
“Vẻ đẹp giản đơn” –
người ta bảo chị
Còn chị chiếc khăn
kéo lại vụng về
Chị quấn khăn lên
người thằng bé
Và bông hoa rơi xuống
sàn nhà.
Nhưng, chị nghe
theo một cách lơ đãng
Tất cả những lời bốn
phía vang lên
Chị buồn bã nghĩ thầm
trong bụng
Rồi lẩm bẩm với
chính mình:
“Tôi không kinh
hoàng cũng chẳng giản đơn
Chẳng kinh hoàng để
mà đi chém giết
Cũng chẳng giản đơn
để mà không biết
Rằng cuộc đời này
quá đỗi kinh hoàng!”
1918
Osif
Mandelstam
GỬI CASSANDRA*
Anh không đi tìm những
khoảnh khắc đầy hoa
Bờ môi em,
Cassandra, hay ánh mắt
Nhưng những đêm
không ngủ trong tháng chạp
Kỷ niệm xưa vẫn
hành hạ hai ta.
Năm 1917, trong
tháng chạp
Ta đã để mất tất cả,
trong tình
Một người bị ý chí
nhân dân cướp bóc
Còn người kia tự cướp
bóc chính mình…
Rồi thủ đô sẽ có một
khi nào
Trên bờ sông Nê-va,
trong ngày lễ
Trong tiếng ồn đêm
hội rất kinh sợ
Ai giật chiếc khăn
tuyệt đẹp trên đầu.
Nhưng nếu như cuộc
đời – cần mê sảng
Và một rừng thông –
những ngôi nhà cao –
Anh đã yêu em, vụng
về chiến thắng
Và một mùa đông dịch
hạch năm nào.
Trên quảng trường với
những xe bọc thép
Anh nhìn ra người ấy
– một con người
Dọa bệnh than như
chó sói dọa người
Hô: bình đẳng, tự
do và luật pháp.
Còn em, Cassandra đớn đau, lặng lẽ
Anh đã không còn có
thể nữa đâu em
Mặt trời Aleksandr(2)
đã từng cháy lên
Một trăm năm trước
soi cho tất cả?
__________
(1)Đây là bài thơ viết về Anna Akhmatova. Cassandra – theo
thần thoại Hy Lạp là con gái của vua Priam.
(2)Aleksandr I (1777-1825) – Hoàng đế Nga từ năm 1801.
Joseph Brodsky
GỬI MỘT TRĂM NĂM ANNA AKHMATOVA
Trang sách và lửa,
lúa và cối xay
mũi giáo nhọn và
mái tóc cắt ngắn
Chúa giữ gìn tất cả
- đặc biệt là lời
của tha thứ, tình
yêu – như là giữ giọng.
Tiếng xương kêu, mạch
đập trong những lời
tiếng xẻng rung lên
đều đều, âm ỉ
đời chỉ một – chúng
từ những bờ môi
vang lên rõ hơn ở
nơi trần thế.
Tâm hồn vĩ đại, tôi
cúi chào từ bên kia đại dương
tìm ra những gì cho
mình, cho những gì tàn úa
chị ngủ trong lòng
đất mẹ, cuộc đời mang ơn
tài thơ chị trong lặng
câm Hoàn vũ.
BỨC THƯ GỬI A.
AKHMATOVA TỪ THÀNH PHỐ SESTRORETSK
Trong những bụi cây
Phần Lan bất tử
nơi những cây thông
gian khổ trị vì
trong lòng tôi mừng
vui khôn xiết kể
khi vịnh Phần Lan
và xóm Komarovo(2)
được chiếu sáng bằng
hoàng hôn tuyệt mĩ
chiếc lá vàng vô tư
lự mùa thu
cứ mỗi giờ – bằng
tình yêu của Chị
và lòng nhân từ của
Chị – thiên thu.
1962
_____________
(1)Sestroresk – thành phố ở phía bắc tỉnh Leningrad.
(2)Komarovo – khu làng nghỉ mát bên bờ vịnh Phần Lan, nơi
đây có trại sáng tác của các nhà văn và mộ Anna Akhmatova.
Evgeny Evtushenko
TƯỞNG NHỚ AKHMATOVA
Akhmatova là người
của hai thời
Có vẻ như về nàng
không nên khóc
Nàng đã sống, có vẻ
không tin được
Lại không thể tin
nàng đã qua đời.
Nàng ra đi, giống
như một bài ca
Đi vào sâu thẳm của
khu vườn tối
Nàng ra đi, có vẻ
như mãi mãi
Từ Leningrad trở về
Pê-téc-bua.
Nàng gắn chặt với cả
hai thời gian
Giữa tâm điểm của
sương và của bóng
Nếu Puskin là mặt
trời, thì nàng
Trong thơ ca – sẽ
mãi là đêm trắng.
Trên cái chết, bất
tử, ngoài tất cả
Nàng đã nằm – có lẽ
nói thế này:
Không phải trong hiện
tại, mà trên nó
Nàng đã nằm giữa
quá khứ, tương lai.
Và quá khứ bên quan
tài im lặng
Không như của người
sống hợp ý trời.
Bờm tóc bạc sáng sủa
và kiêu hãnh
Lấp lánh từ những
chíêc mũ lỗi thời.
Vâng, thời gian làm
đổi thay đường nét
Những con người thời
đó ở nước Nga
Nhưng đôi mắt họ –
ánh sáng nhân từ –
Chẳng gió xoáy hay
sương nào dập tắt.
Tương lai yếu đuối
trên những đôi vai
Những cậu bé đi đến
trường đã đốt
Ngọn lửa học trò
trong từng đôi mắt
Những cuốn vở con nắm
chặt trong tay.
Và những cô bé
trong cặp của mình
Có lẽ mang nhật ký
và danh mục
Họ vẫn thế – thiêng
liêng và hạnh phúc
Vẫn ngây thơ như
ngày ấy nữ sinh.
Sự sụp đổ toàn cầu,
xin đừng để
Mất đi mối liên hệ
của thời gian
Vì không thể hai nước
Nga – điều giản đơn
Cũng như hai
Akhmatova, không thể.