Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2018

Thơ Anna Akhmatova - Phần 8 - Khúc Tưởng Niệm


142. KHÚC TƯỞNG NIỆM

Không, không phải dưới bầu trời xứ lạ
Và cũng không đôi cánh lạ giữ gìn
Tôi cùng với đồng bào mình khi đó
Thật không may rằng tôi với nhân dân.
1961

Thay lời tựa

Trong những tháng năm khủng khiếp của cuộc trấn áp Yezhov (1), tôi đã trải qua 17 tháng trời trong những dòng người tập trung Leningrad. Một lần, có ai đó “nhậnra tôi. Khi đó, một người phụ nữ đứng sau lưng tôi, tất nhiên là chưa bao giờ nghe tên tôi, như chợt tỉnh khỏi cái vẻ đ đẫn vốn có, ghé vào tai tôi ( đó tất cả đều nói thầm):
- Thế những chuyện thế này chị có tả được không?
Và tôi trả lời:
- Được.
Khi đó, có một vẻ gì giống như một nụ cười thoáng qua trên gương mặt của chị ta như ngày nào.
Leningrad 1-4-1957

Lời dâng

Trước nỗi đau này rừng cúi xuống
Và dòng sông rộng lớn cũng ngừng trôi
Nhưng những cánh cửa nhà tù chắc nặng
Còn đằng sau là "những kẻ khổ sai"
Và nỗi buồn đau chết người.
Giờ đang thổi cho ai cơn gió mát
Và chỉ dành cho ai đấy hoàng hôn
Còn chúng tôi giờ đây, không biết được
Nghe khắp nơi tiếng cổng khoá đau buồn
Và nặng nề tiếng người lính giậm chân
Như đi vào lễ mi xa buổi sáng
Vào kinh đô của chết chóc, hoang tàn
Nơi đó gặp những người sắp chết
Dưới mặt trời và Nê-va mù sương
Còn hy vọng vang lên chốn xa xăm
Nghe bản ánvà bỗng trào nước mắt
Với mọi người tất cả đã cách ngăn
Cuộc đời như từ trong tim đau đớn
Tựa hồ như bị người ta đem quẳng
Nhưng một mình rảo bước… chỉ một mình
Ở đâu những người bạn gái vô tình
Hai người bạn của tháng năm cay đắng?
Hình dung gì trong bão tuyết Xibêri
Trong ánh trăng thanh họ cảm thấy điều gì?
Cho tôi gửi họ lời chào vĩnh biệt.
3-1940

Lời mở đầu

Điều này chỉ xảy ra khi mỉm cười
Và vui vẻ lặng yên người đã chết
Và không cần vẻ tròng trành, đung đưa
Quanh những nhà tù thành phố Leningrad.
Và chỉ khi đau đớn đến cuồng điên
Đã bước đi dòng người bị kết án
Và tiếng còi ly biệt đã vang lên
Con tàu hoả rú những hồi còi ngắn
Những ngôi sao chết chóc trên đầu ta
Và nước Nga vô tội đang quằn quại
Dưới những đôi giày đinh thấm máu
Dưới bánh những xe đen đúa chở người tù (2).

1
Người ta đưa con đi buổi bình minh
Mẹ chạy theo sau như người đi đưa đám
Trong nhà tối tiếng trẻ khóc vang lên
Trên bàn thờ ngọn nến đang rơi xuống!
Trên môi con giá băng hình tượng thánh
Và mồ hôi chết trên vầng trán… không quên!
Mẹ sẽ đứng bên tháp Đồng hồ Chuông điện (3)
Như vợ những ông quan bị hành quyết sẽ tru lên.
11-1935


2
Sông Đông êm đềm trôi thao thiết
Ghé vào nhà ánh trăng vàng.

Vầng trăng đội mũ lệch
Bước vào nhà nhìn ngó xung quanh.

Người đàn bà này đớn đau, tủi nhục
Người đàn bà này cô độc trên đời.

Chồng dưới mộ, con trai nơi tù ngục (4)
Mọi người ơi hãy cầu nguyện cho tôi.
1938

3
Không, không phải tôi, mà khổ đau ai đấy
Bởi có thể nào chịu nổi điều xảy ra
Hãy cứ để cho tấm vải đen che lấy
Và để những ngọn đèn sẽ mang bóng đêm đi.
1939

4
Giá mà được đem tất cả bạn bè
Chỉ cho mi – kẻ buồn cười, người yêu mến
Kẻ tội lỗi hồn nhiên của khu làng sang trọng (5)
Điều gì xảy ra với cuộc đời mi –
Với túi đồ cùng ba trăm người kia
Dưới những cây thập tự kia sẽ đứng
Và bằng nước mắt của mình cháy bỏng
Giá băng của đêm năm mới đốt lên.
Ở đó cây dương nhà tù đang nghiêng mình
Không một tiếng động vang lên – và ở đó
Có biết bao kẻ vô tội phải lìa trần… 
1938

5
Kêu lên suốt mười bảy tháng
Gọi về nhà đứa con tôi
Dưới chân kẻ hành hình ngã xuống
Con trai và điều khủng khiếp của tôi ơi.
Tất cả đều lẫn lộn đến muôn đời
Và tôi không tài nào hiểu nổi
Giờ đây ai thú dữ, ai người
Còn lâu không ngày hành hình phải đợi.
Chỉ những bông hoa đầy bụi
Và tiếng ngân vang của bình hương
Vọng về đâu giữa thinh không.
Vào đôi mắt tôi, đang nhìn thẳng
Doạ bằng cái chết ngày sắp đến
Một ngôi sao lớn vô cùng.
1939

6
Ngày tháng bay đi rất nhẹ nhàng
Điều gì đã xảy ra, không hiểu được
Con trai của tôi ra sao nơi tù ngục
Những đêm trắng vẫn ngó nhìn
Chúng lại vẫn ngó nhìn
Bằng con mắt diều hâu nóng bỏng
Về cây thập ác của con cao lắm
Và nói về cái chết của con.
Mùa xuân 1939

7
Bản án

Và đã rơi xuống một lời bằng đá
Trên ngực hãy còn sống động của tôi.
Thì chẳng sao, tôi đã sẵn sàng rồi
Khắc phục nó bằng một cách nào đó.

Ngày hôm nay có nhiều việc phải làm
Cần xóa sạch những gì trong trí nhớ
Cần phải làm cho tâm hồn hóa đá
Cần học lại cách sống để giữ mình.

Chứ không phải… tiếng mùa hè nóng bỏng
Như lễ hội sau cửa sổ nhà tôi
Tôi từ lâu linh cảm trước ngày này
Ngày sáng sủa và ngôi nhà hoang vắng.
1939

8
Gửi cái chết

Mi sẽ đến – sao chẳng đến lúc này?
Ta đợi mi – bây giờ ta khó ở
Ta tắt ngọn đèn và ta đóng cửa
Mi giản đơn và thật lạ lùng thay.
Vẻ nào cũng được, hãy nhận cho điều này
Hãy xông vào giết bằng liều thuốc độc
Hoặc lẻn đến gần như tên kẻ cướp
Hoặc đầu độc bằng cơn sốt ngất ngây.
Hoặc bằng câu chuyện do mi nghĩ ra
Mà tất cả đã từng nghe chán ngấy
Để chiếc mũ xanh trên cao ta sẽ thấy
Và vẻ xanh xao sợ hãi, kẻ trông nhà.
Sao cũng được. Sông Ênixây gào thét
Và ngôi sao bắc cực sẽ ánh lên
Và màu xanh những đôi mắt yêu thương
Điều khủng khiếp cuối cùng đem che khuất.
8-1939

9
Và sự điên cuồng bằng đôi cánh
Đã bao trùm lên một nửa linh hồn
Và nó uống say bằng rượu mạnh
Vẫy gọi vào thung lũng màu đen.

Và tôi hiểu ra rằng, cho nó
Tôi phải nhường lại sự vinh quang
Tôi nghe theo cơn mê sảng của mình
Mà dường như nghe cơn mê xa lạ.

Và sự điên cuồng không cho phép
Một điều gì tôi được mang theo
(Dù cho tôi có nài nỉ, yêu cầu
Dù tôi có van xin nằng nặc).

Không đôi mắt của con tôi khủng khiếp –
Sự khổ đau đã hoá đá khô cằn
Không ngày, khi đổ xuống cơn giông
Không giờ trong nhà tù gặp mặt.

Không dịu dàng của bàn tay hơi mát
Không chiếc bóng bồi hồi của những cây gia
Không tiếng động nhẹ nhàng ở rất xa –
Là những lời an ủi lần sau chót.
4-5-1940


10
Hành hình

Nhìn thấy Con nằm trong mộ
xin Mẹ đừng nức nở về Con. 
______________ 

Dàn đồng ca thiên thần ca tụng Chúa
Và bầu trời trong ánh lửa cháy lên
Nói với Cha: “Sao Cha nỡ bỏ Con!”
Còn với Mẹ: “Xin Mẹ đừng nức nở…”
1938

-----------
Mari Ma-đơ-len nức nở, thổn thức lên
Người học trò dấu yêu hoá đá
Và Đức Mẹ đứng lặng im nơi đó
Không một ai dám ngước mắt nhìn.
1940


Lời kết

1
Tôi nhận ra những gương mặt tóp vào
Dưới những mí mắt ánh lên nỗi sợ
Như trên trang giấy biết hình văn tự
Trên những má kia hiện nỗi khổ đau.
Như những mái tóc từ tro bụi, đen màu 
Rồi bỗng nhiên hoá thành màu bạc trắng
Nụ cười héo trên đôi môi ngoan ngoãn
Trong nụ cười khô nỗi sợ hãi run lên.
Tôi cầu nguyện không chỉ cho một mình
Mà cho tất cả những ai cùng ở đó
Trong nắng hè, giữa mùa đông băng giá
Dưới bức tường màu đỏ mắt mù thêm.

2
Thêm lần nữa giờ tưởng niệm đến gần
Tôi nghe, nhìn và cảm những người ở đấy: 

Một người, chắc gì bên cửa sổ người ta dẫn tới
Một người, trên đất không giẫm chân lên.

Và một người, mái đầu đẹp rung rung
Nói rằng: “Đến đây, như về nhà vậy”.

Tôi muốn tên tất cả mọi người được gọi
Nhưng không còn danh sách, biết đâu tìm.

Dành cho họ tôi dệt như là tấm vải 
Từ những lời nghèo nghe ở họ mà thôi.

Tôi nhớ đến họ, thường xuyên và khắp nơi
Không quên họ cả trong tai họa mới.

Và nếu miệng tôi người ta bắt khoá lại
Không nói ra lời muốn nói trăm triệu dân.

Thì cứ để cho người ta sẽ nhắc tên
Trước cái ngày làm giỗ cho tôi vậy.

Và ở đất nước này, một lúc nào đấy
Người ta nghĩ rằng sẽ dựng tượng của tôi.

Tôi xin trân trọng, rất cám ơn điều này
Nhưng chỉ với một điều – xin đừng dựng tượng

Ở nơi tôi sinh ra – gần bên bờ biển
Mối liên hệ với biển khơi đã không còn

Và cũng không ở nơi kín đáo trong vườn
Nơi chiếc bóng an ủi sẽ đi tìm kiếm

Mà ở đây, nơi ba trăm giờ tôi đã đứng
Nơi bao giờ cửa cũng đóng với tôi.

Và tôi sợ rằng trong cái chết mừng vui
Quên những xe chở tù màu đen vang động.

Quên rằng tôi đã đập cửa trong ngày xa vắng
Rằng bà già đã tru lên như con thú bị thương.

Và mặc cho sự bất động của thế kỉ đồng
Dòng nước mắt tuôn ra như là băng tan chảy

Và bồ câu nhà tù sẽ hát nơi xa xôi ấy
Và những con tàu sẽ nhẹ nhàng bơi trên sóng Nêva.
10-3-1940
_______________

1- Cuộc trấn áp Yezhov (Ежовщина) hay tên gọi khác là Đại thanh trừng (tiếng Nga: Большой террор; tiếng Anh: The Great Terror) – là đỉnh cao của những cuộc thanh trừng của Stalin trong các năm 1937 – 1938. Tên gọi này lấy theo tên của Nicolai Yezhov (1895 – 1940), người giữ chức vụ tương đương với Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Cơ quan An ninh Liên Xô thời đó. 
2 - Những xe đen đúa chở người tù (черных марусь - trong nguyên bản)
3 - Đồng hồ Chuông điện – tức Đồng hồ Chuông điện Kremlin; như vợ những ông quan bị hành quyết – tức vợ của những sĩ quan trong vụ nổi loạn Streltsy (Стрелецкий бунт) năm 1698 chống lại Pie I Đại đế. Vụ nổi loạn bị dập tắt và hàng nghìn người đã bị hành quyết.
4 -Chồng dưới mộ, con trai nơi tù ngục – đây là chồng đầu tiên Nikolai Gumilyov (1886 – 1921) bị xử bắn năm 1921 và đứa con trai duy nhất với ông là Lev Gumilyov cũng bị bắt đi tù. 
5 - Khu làng sang trọng – tức Tsarskoye Selo.
10-3-1940



Pеквием

Нет, и не под чуждым небосводом,
И не под защитой чуждых крыл,-
Я была тогда с моим народом,
Там, где мой народ, к несчастью, был.
1961
  
Вместо предисловия

В страшные годы ежовщины я провела семнадцать месяцев в тюремных очередях в Ленинграде. Как-то раз кто-то "опознал" меня. Тогда стоящая за мной женщина, которая, конечно, никогда не слыхала моего имени, очнулась от свойственного нам всем оцепенения и спросила меня на ухо (там все говорили шепотом):
- А это вы можете описать?
И я сказала:
- Могу.
Тогда что-то вроде улыбки скользнуло по тому, что некогда было ее лицом.
1 апреля 1957, Ленинград
  
Посвящение

Перед этим горем гнутся горы,
Не течет великая река,
Но крепки тюремные затворы,
А за ними "каторжные норы"
И смертельная тоска.
Для кого-то веет ветер свежий,
Для кого-то нежится закат -
Мы не знаем, мы повсюду те же,
Слышим лишь ключей постылый скрежет
Да шаги тяжелые солдат.
Подымались как к обедне ранней,
По столице одичалой шли,
Там встречались, мертвых бездыханней,
Солнце ниже, и Нева туманней,
А надежда все поет вдали.
Приговор... И сразу слезы хлынут,
Ото всех уже отделена,
Словно с болью жизнь из сердца вынут,
Словно грубо навзничь опрокинут,
Но идет... Шатается... Одна...
Где теперь невольные подруги
Двух моих осатанелых лет?
Что им чудится в сибирской вьюге,
Что мерещится им в лунном круге?
Им я шлю прощальный свой привет.
Март 1940

Вступление

Это было, когда улыбался
Только мертвый, спокойствию рад.
И ненужным привеском качался
Возле тюрем своих Ленинград.
И когда, обезумев от муки,
Шли уже осужденных полки,
И короткую песню разлуки
Паровозные пели гудки,
Звезды смерти стояли над нами,
И безвинная корчилась Русь
Под кровавыми сапогами
И под шинами черных марусь.

1
Уводили тебя на рассвете,
За тобой, как на выносе, шла,
В темной горнице плакали дети,
У божницы свеча оплыла.
На губах твоих холод иконки,
Смертный пот на челе... Не забыть!
Буду я, как стрелецкие женки,
Под кремлевскими башнями выть.
[Ноябрь] 1935, Москва

2
Тихо льется тихий Дон,
Желтый месяц входит в дом.

Входит в шапке набекрень,
Видит желтый месяц тень.

Эта женщина больна,
Эта женщина одна.

Муж в могиле, сын в тюрьме,
Помолитесь обо мне.
1938

3
Нет, это не я, это кто-то другой страдает.
Я бы так не могла, а то, что случилось,
Пусть черные сукна покроют,
И пусть унесут фонари...
Ночь.
1939

4
Показать бы тебе, насмешнице
И любимице всех друзей,
Царскосельской веселой грешнице,
Что случится с жизнью твоей -
Как трехсотая, с передачею,
Под Крестами будешь стоять
И своею слезою горячею
Новогодний лед прожигать.
Там тюремный тополь качается,
И ни звука - а сколько там
Неповинных жизней кончается...
1938

5
Семнадцать месяцев кричу,
Зову тебя домой,
Кидалась в ноги палачу,
Ты сын и ужас мой.
Все перепуталось навек,
И мне не разобрать
Теперь, кто зверь, кто человек,
И долго ль казни ждать.
И только пыльные цветы,
И звон кадильный, и следы
Куда-то в никуда.
И прямо мне в глаза глядит
И скорой гибелью грозит
Огромная звезда.
1939

6
Легкие летят недели,
Что случилось, не пойму.
Как тебе, сынок, в тюрьму
Ночи белые глядели,
Как они опять глядят
Ястребиным жарким оком,
О твоем кресте высоком
И о смерти говорят.
Весна 1939

Приговор

7
И упало каменное слово
На мою еще живую грудь.
Ничего, ведь я была готова,
Справлюсь с этим как-нибудь.

У меня сегодня много дела:
Надо память до конца убить,
Надо, чтоб душа окаменела,
Надо снова научиться жить.

А не то... Горячий шелест лета,
Словно праздник за моим окном.
Я давно предчувствовала этот
Светлый день и опустелый дом.
[22 июня] 1939, Фонтанный Дом

К смерти

8
Ты все равно придешь - зачем же не теперь?
Я жду тебя - мне очень трудно.
Я потушила свет и отворила дверь
Тебе, такой простой и чудной.
Прими для этого какой угодно вид,
Ворвись отравленным снарядом
Иль с гирькой подкрадись, как опытный бандит,
Иль отрави тифозным чадом.
Иль сказочкой, придуманной тобой
И всем до тошноты знакомой,-
Чтоб я увидела верх шапки голубой
И бледного от страха управдома.
Мне все равно теперь. Клубится Енисей,
Звезда Полярная сияет.
И синий блеск возлюбленных очей
Последний ужас застилает.
19 августа 1939, Фонтанный Дом

9
Уже безумие крылом
Души накрыло половину,
И поит огненным вином
И манит в черную долину.

И поняла я, что ему
Должна я уступить победу,
Прислушиваясь к своему
Уже как бы чужому бреду.

И не позволит ничего
Оно мне унести с собою
(Как ни упрашивай его
И как ни докучай мольбою):

Ни сына страшные глаза -
Окаменелое страданье,
Ни день, когда пришла гроза,
Ни час тюремного свиданья,

Ни милую прохладу рук,
Ни лип взволнованные тени,
Ни отдаленный легкий звук -
Слова последних утешений.
4 мая 1940, Фонтанный Дом

Распятие

10
Не рыдай Мене, Мати,
во гробе зрящия.
----
Хор ангелов великий час восславил,
И небеса расплавились в огне.
Отцу сказал: "Почто Меня оставил!"
А матери: "О, не рыдай Мене..."
1938

Магдалина билась и рыдала,
Ученик любимый каменел,
А туда, где молча Мать стояла,
Так никто взглянуть и не посмел.
1940, Фонтанный Дом

Эпилог

I
Узнала я, как опадают лица,
Как из-под век выглядывает страх,
Как клинописи жесткие страницы
Страдание выводит на щеках,
Как локоны из пепельных и черных
Серебряными делаются вдруг,
Улыбка вянет на губах покорных,
И в сухоньком смешке дрожит испуг.
И я молюсь не о себе одной,
А обо всех, кто там стоял со мною,
И в лютый холод, и в июльский зной
Под красною ослепшею стеною.

II
Опять поминальный приблизился час.
Я вижу, я слышу, я чувствую вас:

И ту, что едва до окна довели,
И ту, что родимой не топчет земли,

И ту, что красивой тряхнув головой,
Сказала: "Сюда прихожу, как домой".

Хотелось бы всех поименно назвать,
Да отняли список, и негде узнать.

Для них соткала я широкий покров
Из бедных, у них же подслушанных слов.

О них вспоминаю всегда и везде,
О них не забуду и в новой беде,

И если зажмут мой измученный рот,
Которым кричит стомильонный народ,

Пусть так же они поминают меня
В канун моего поминального дня.

А если когда-нибудь в этой стране
Воздвигнуть задумают памятник мне,

Согласье на это даю торжество,
Но только с условьем - не ставить его

Ни около моря, где я родилась:
Последняя с морем разорвана связь,

Ни в царском саду у заветного пня,
Где тень безутешная ищет меня,

А здесь, где стояла я триста часов
И где для меня не открыли засов.

Затем, что и в смерти блаженной боюсь
Забыть громыхание черных марусь,

Забыть, как постылая хлопала дверь
И выла старуха, как раненый зверь.

И пусть с неподвижных и бронзовых век
Как слезы, струится подтаявший снег,

И голубь тюремный пусть гулит вдали,
И тихо идут по Неве корабли.
1935-1940




143. LỜI CHÚC RƯỢU CUỐI CÙNG

Tôi uống cho ngôi nhà đ nát
Cho cuộc đời độc ác của tôi
Cho sự cô đơn của hai người
Và cho anh tôi chúc, -
Vì gian dối của bờ môi
Vì vẻ lạnh lùng đôi mắt
Vì cuộc đời thô bạo và ác độc
Vì không cứu rỗi Đức Chúa Trời.
1934

Последний тост

Я пью за разоренный дом,
За злую жизнь мою,
За одиночество вдвоем,
И за тебя я пью,—
За ложь меня предавших губ,
За мертвый холод глаз,
За то, что мир жесток и груб,
За то, что Бог не спас.
1934




144. MAIAKOVSKY NĂM 1913

Tôi đã không biết anh trong vinh quang của mình
Chỉ nhớ rằng anh dồi dào sinh lực
Nhưng có thể, ngày hôm nay, quả thực
Tôi nhớ về những ngày tháng xa xăm.

Trong thơ anh mạnh mẽ những tiếng vang
Những giọng nói rất chi là mới mẻ
Không hề lười biếng những bàn tay trẻ
Anh xây nên khủng khiếp những cánh rừng.

Cứ ngỡ rằng những gì thuộc về anh
Không như những gì có từ trước đó
Những gì anh đả phá – đều sụp đổ
Trong mỗi lời một bản án vang lên.

Anh cô độc và thường không bằng lòng
Anh sốt ruột và hối thúc phận số
Anh biết rằng sắp tới đời vui vẻ
Anh kiên cường trong một cuộc đấu tranh.

Và tiếng dội về của nước triều lên
Nghe rõ ràng mỗi khi mà anh đọc
Mưa giận dữ quất vào đôi con mắt
Với mọi người anh tranh luận rất hăng.

Và khi hãy còn một cái tên chưa quen
Tia chớp lóe lên trong phòng oi ả
Để bây giờ cả nước còn gìn giữ
Lời vang lên như hiệu lệnh đấu tranh.
3-1940

Маяковский в 1913 году

Я тебя в твоей не знала славе,
Помню только бурный твой расцвет,
Но, быть может, я сегодня вправе
Вспомнить день тех отдаленных лет.

Как в стихах твоих крепчали звуки,
Новые роились голоса...
Не ленились молодые руки,
Грозные ты возводил леса.

Все, чего касался ты, казалось
Не таким, как было до тех пор,
То, что разрушал ты,- разрушалось,
В каждом слове бился приговор.

и часто недоволен,
С нетерпеньем торопил судьбу,
Знал, что скоро выйдешь весел, волен
На свою великую борьбу.

И уже отзывный гул прилива
Слышался, когда ты нам читал,
Дождь косил свои глаза гневливо,
С городом ты в буйный спор вступал.

И еще не слышанное имя
Молнией влетело в душный зал,
Чтобы ныне, всей страной хранимо,
Зазвучать, как боевой сигнал.
1940


145.EM TỪNG LÀ MÙA XUÂN

Em từng là mùa xuân, là khúc hát của anh
Và sau đó diệu kỳ hơn thế nữa
Còn giờ đây em không có trên trần.
1958

Я была тебе весной и песней

Я была тебе весной и песней,
А потом была еще чудесней,
А теперь меня на свете нет.
1958


146. ĐÊM CỦA EM – CƠN MÊ SẢNG VỀ ANH

Đêm của em – cơn mê sảng về anh
Ngày chỉ hững hờ – thôi thì cứ mặc!
Em đã mỉm cười cám ơn số kiếp
Đã gửi cho em một nỗi u buồn. 

Cơn say hôm qua nặng nề vô cùng
Có thể sắp tới đây em cháy hết
Em cứ ngỡ đám cháy này thiêu đốt
Sẽ không biến thành một buổi bình minh. 

Em cháy lên trong lửa có lâu không
Nguyền rủa người dưng một cách bí mật?
Trong cái bẫy của em rất khủng khiếp
Rồi đây anh sẽ chẳng nhìn thấy em.
1909

Ночь моя - бред о тебе

Ночь моя - бред о тебе,
День - равнодушное: пусть!
Я улыбнулась судьбе,
Мне посылающей грусть.

Тяжек вчерашний угар,
Скоро ли я догорю,
Кажется, этот пожар
Не превратится в зарю.

Долго ль мне бится в огне,
Дальнего тайно кляня?..
В страшной моей западне
Ты не увидишь меня.
1909
  


147. GỬI NHỮNG NGƯỜI CHIẾN THẮNG

Sau lưng là Khải hoàn môn Narva
Còn phía trước chỉ còn là cái chết
Lính bộ binh Xô Viết vẫn xông ra
Trước những cỗ pháo kinh hoàng của Đức.
Có những cuốn sách viết về các anh:
“Hy sinh đời mình vì bao người khác”
Những người đàn ông vô cùng chất phác –
Những Ivan, Vasily, Aleksey, Grigory
Những cháu, con, những anh em, chú bác!
1944
_____________
*Khải hoàn môn Narva ở St. Petersburg; pháo kinh hoàng của Đức (Берт trong nguyên bản) – tác giả nhắc đến một loại pháo lớn của Đức trong Thế chiến I (Big Bertha).

Победителям

Сзади Нарвские были ворота,
Впереди была только смерть...
Так советская шла пехота
Прямо в желтые жерла «Берт».
Вот о вас и напишут книжки:
«Жизнь свою за други своя»,
Незатейливые парнишки —
Ваньки, Васьки, Алешки, Гришки, —
Внуки, братики, сыновья!
1944


148. TƯỞNG NHỚ A. BLOK

Anh nói đúng – lại hiệu thuốc, đèn lồng
Sông Nhê-va, im lặng, đá hoa cương…
Như tượng đài của buổi đầu thế kỷ
Ở chốn này con người ấy đứng yên.

Khi anh từ giã ngôi nhà Puskin
Phút chia ly giơ vẫy bàn tay mình
Và tiếp nhận vẻ rã rời chết chóc
Như nhận về vẻ tĩnh lặng bị oan.
1946

Памяти Александра Блока

Он прав - опять фонарь, аптека,
Нева, безмолвие, гранит...
Как памятник началу века,
Там этот человек стоит -

Когда он Пушкинскому Дому,
Прощаясь, помахал рукой
И принял смертную истому
Как незаслуженный покой.
1946


149. MÙA THỨ NĂM CỦA NĂM

Hãy ca tụng, tán dương
Mùa thứ năm của năm.
Hãy thở tự do cuối
Bởi vì đấy là tình.

Bay cao giữa trời xanh
Hình vạn vật nhẹ nhàng
Thân xác thôi kỷ niệm
Nỗi buồn tròn một năm.
1913

То пятое время года

То пятое время года,
Только его славословь.
Дыши последней свободой,
Оттого, что это — любовь.

Высоко небо взлетело,
Легки очертанья вещей,
И уже не празднует тело
Годовщину грусти своей.
1913
  


150. PUSKIN

Ai biết được thế nào là vinh quang!
Bằng giá nào ông mua được quyền hành
Là khả năng hay đấy là ân sủng
Mà ông từng láu lỉnhvà khôn ngoan
Đùa với tất cả, lặng im bí ẩn
Gọi sự vật – đúng tên gọi của mình?...
1943

Пушкин

Кто знает, что такое слава!
Какой ценой купил он право,
Возможность или благодать
Над всем так мудро и лукаво
Шутить, таинственно молчать
И ногу ножкой называть.
1943


151. TÔI CÓ MỘT NỤ CƯỜI

Tôi có một nụ cười
Đó là sự chuyển động của bờ môi.
Chỉ vì anh mà tôi gìn giữ nó -
Bởi vì tình yêu nó ban tặng cho tôi.

Mặc dù anh dữ dằn và trắng trợn
Mặc dù anh giờ đây vẫn yêu người.
Bàn thờ màu vàng đang trước mặt tôi
Và bên tôi – chàng rể đôi mắt xám.
1913

У меня есть улыбка одна

У меня есть улыбка одна.
Так. Движенье чуть видное губ.
Для тебя я ее берегу -
Ведь она мне любовью дана.

Все равно, чтоты наглый и злой,
Все равно, что ты любишь других.
Предо мной золотой аналой,
И со мной сероглазый жених.
1913


152. VÀ VINH QUANG NHƯ THIÊN NGA BƠI LỘI

Và vinh quang như thiên nga bơi lội
Xuyên qua làn khói màu vàng
Còn anh, tình yêu ơi, mãi mãi
Vẫn là điều thất vọng của em.
1911-1919

И слава лебедью плыла

И слава лебедью плыла
Сквозь золотистый дым.
А ты, любовь, всегда была
Отчаяньем моим.
1911-1919


153. TẤT NHIÊN LÀ NIỀM VUI TÔI CÓ ÍT

Tất nhiên là niềm vui tôi có ít
Vì đời bão giông vốn đã dành cho
Nhưng mà tôi lại tình cờ được biết
Niềm hạnh phúc có những con mắt gì…
1920?

Конечно, мне радости мало

Конечно, мне радости мало
Такая сулила гроза,
Зато я случайно узнала,
Какие у счастья глаза…
1920?


154. ÔI, CÓ NHỮNG LỜI LÀ DUY NHẤT

Ôi, có những lời là duy nhất
Ai nói ra – đã phải bỏ quá nhiều. 
Chỉ màu của trời xanh là bất tuyệt
Và lòng từ bi của Đấng Tối Cao.
1916 

О, есть неповторимые слова

О, есть неповторимые слова,
Кто их сказал — истратил слишком много.
Неистощима только синева
Небесная и милосердье Бога.
1916 



155. TÔI KHÔNG CẦN NIỀM HẠNH PHÚC NHO NHỎ

Tôi không cần niềm hạnh phúc nho nhỏ
Nên tôi tiễn chồng đến với người yêu*
Đứa con tôi mệt mỏi, vẫn cưng chiều
Tôi sẽ ru con ngủ.

Và lần nữa trong căn phòng lạnh lẽo
Tôi lại nguyện cầu Đức Mẹ đồng trinh
Quả thật khó sống cuộc đời ẩn náu
Mà làm người vui vẻ lại khó hơn.

Chỉ mong giấc mơ như lửa cháy lên
Để tôi sẽ bước vào một ngôi đền
Đá màu trắng và có năm ngọn tháp
Theo lối mòn đã ghi khắc trong tim.
1914 
___________
*Theo lời của chính Akhmatova thì bài thơ này viết trong thời kỳ Nicolai Gumilyov yêu Tatyana Adamovich. 

Мне не надо счастья малого

Мне не надо счастья малого,
Мужа к милой провожу
И, довольного, усталого,
Спать ребенка уложу.

Снова мне в прохладной горнице
Богородицу молить…
Трудно, трудно жить затворницей,
Да трудней веселой быть.

Только б сон приснился пламенный,
Как войду в нагорный храм,
Пятиглавый, белый, каменный,
По запомненным тропам.

1914 


156. ANH CÓ MUỐN BIẾT VỀ CHUYỆN ĐÃ TỪNG

Anh có muốn biết về chuyện đã từng?
Đồng hồ điểm ba giờ trong phòng ăn
Nàng vịn tay vào lan can, giã biệt
Và nói những lời một cách khó nhọc:
“Chuyện là thế… Ồ không, em đã quên
Em yêu anh, em đã từng yêu anh
Từ cái ngày xa lắc!” –
“Vâng”?... 
1910 

Хочешь знать, как всё это было?

…Хочешь знать, как всё это было? —
Три в столовой пробило,
И, прощаясь, держась за перила,
Она словно с трудом говорила:
«Это всё… Ах нет, я забыла,
Я люблю вас, я вас любила
Ещё тогда!» —
«Да»?!…
1910



157. ANH ĐÃ TỪNG YÊU BA THỨ TRÊN TRẦN 

Anh đã từng yêu ba thứ trên trần:
Yêu tiếng hát nhà thờ, những con công màu trắng
Yêu những bản đồ châu Mỹ cổ xưa đã mờ nhạt hẳn.
Và chẳng hề thích tiếng khóc của trẻ con
Chẳng thích uống trà với mứt đùm đũm
Và không thích phụ nữ nổi tam bành

…Thế mà tôi từng là vợ của anh.
1910 

Он любил три вещи на свете

Он любил три вещи на свете: 
За вечерней п Он любил три вещи на свете енье, белых павлинов 
И стертые карты Америки. 
Не любил, когда плачут дети, 
Не любил чая с малиной 
И женской истерики 

...А я была его женой.
1910 



158. BẠN KHÔNG ĐOÁN RA NÓ NGAY LẬP TỨC

Bạn không đoán ra nó ngay lập tức
Thứ bệnh dịch khủng khiếp và tối tăm
Thứ mà người ta gọi rất dịu dàng
Thứ mà thường vẫn làm cho người chết. 

Dấu hiệu đầu tiên – vui rất lạ lùng
Tựa hồ như vừa uống vào rượu đắng
Dấu hiệu thứ hai – buồn rất kinh khủng
Không thể thở ra và mệt vô cùng. 

Dấu hiệu thứ ba – là chân thật nhất:
Nếu như con tim chết lặng thường xuyên
Ngọn nến cháy trong ánh mắt mù sương
Thì nghĩa là – một buổi chiều gặp mặt… 

Điều linh cảm trong đêm làm bạn mệt:
Bạn thấy trên người bạn một thiên thần.
Mà gương mặt thiên thần bạn rất quen… 
Và vẻ mệt mỏi vô cùng ngột ngạt. 

Có một bức màn màu đen bằng vải
Giấc mơ nặng nề và sẽ không lâu… 
Sáng thức dậy với điều bí ẩn mới
Không rõ ràng mà cũng chẳng ngọt ngào.

Và bạn sẽ rửa bằng dòng máu xối
Là thứ người ta vẫn gọi là TÌNH.
1910 

Угадаешь ты ее не сразу

Угадаешь ты ее не сразу
Жуткую и темную заразу,
Ту, что люди нежно называют,
От которой люди умирают.

Первый признак - странное веселье,
Словно ты пила хмельное зелье,
А второй - печаль, печаль такая,
Что нельзя вздохнуть, изнемогая,

Только третий - самый настоящий:
Если сердце замирает чаще
И горят в туманном взоре свечи,
Это значит - вечер новой встречи...

Ночью ты предчувствием томима:
Над собой увидишь Серафима.
А лицо его тебе знакомо...
И накинет душная истома

На тебя атласный черный полог.
Будет сон твой тяжек и недолог...
А наутро встанешь с новою загадкой,
Но уже не ясной и не сладкой,

И омоешь пыточною кровью
То, что люди назвали любовью.
1910


159. NHƯ MỘT CỌNG RƠM ANH UỐNG HỒN EM 

Như một cọng rơm, anh uống hồn em
Em biết rằng hương vị cay và đắng
Nhưng không vi phạm lời đồn tra tấn
Ô, sự tĩnh lặng của em đã nhiều tuần. 

Khi kết thúc, anh hãy nói. Đừng buồn
Rằng hồn em trên đời không còn nữa
Em sẽ ra đi bằng con đường ngắn ngủi
Và để xem trò chơi của trẻ con. 

Phúc bồn tử gai nở hoa tưng bừng
Và người ta chở gạch sau bờ giậu
Anh là ai: người anh hay người tình
Em không nhớ mà cũng không cần nhớ.

Ở đây vô gia cư, ở đây sáng sủa
Đang nghỉ ngơi thân thể mệt rã rời…
Còn người qua đường nghĩ rất mơ hồ:
Chỉ vừa hôm qua đã thành góa bụa.
1911

Как соломинкой, пьёшь мою душу

Как соломинкой, пьёшь мою душу.
Знаю, вкус её горек и хмелен.
Но я пытку мольбой не нарушу.
О, покой мой многонеделен.

Когда кончишь, скажи. Не печально,
Что души моей нет на свете.
Я пойду дорогой недальней
Посмотреть, как играют дети.

На кустах зацветает крыжовник,
И везут кирпичи за оградой.
Кто ты: брат мой или любовник,
Я не помню, и помнить не надо.

Как светло здесь и как бесприютно,
Отдыхает усталое тело…
А прохожие думают смутно:
Верно, только вчера овдовела.

1911 



          Phần phụ lục (11 bài)
 
Nhại theo thơ Anna Akhmatova

Akhmatova không chỉ làm người ta khâm phục mà còn thường xuyên trở thành đối tượng của mô phỏng hay nhại theo thơ bà. Nhại theo thơ Akhmatova có rất nhiều, thậm chí, có cả một thuật ngữ “Podakhmatovka” (nhại Akhmatova). Người nhại thơ đều bắt chước giọng phụ nữ để làm thơ, kiểu như: “Em nhầm lẫn xỏ chiếc giày bên trái/ Sang bàn chân bên phải của mình”.


Sergei Malakhov
NGƯỜI PHỤ NỮ CỦA MÌNH ANH ĐỪNG LẪN

 Người phụ nữ của mình anh đừng lẫn
Với một người nào: em quấn khăn lông
Còn anh muốn lẫn lộn chỉ hoài công
Và anh ra vẻ thở dài, than vắn.

Em giật mình kêu: này anh, này anh!
Ô, lạy Chúa, anh giúp cho em mấy
Em nhầm lẫn xỏ chiếc giày bên trái
Sang bàn chân bên phải của mình(1).

Anh thở dài, kêu lên: An-nhiu-ta!(2)
Còn em ngồi lên bậc thềm: – gì thế?
Anh mỉm cười rất ghê và lặng lẽ
Rồi nói rằng: – đừng cọ xát bành tô!
______________
(1)Chi tiết “tay phải xỏ nhầm găng tay trái” của Akhmatova rất đặc trưng cho vẻ bối rối của người phụ nữ khi yêu, chi tiết này rất nổi tiếng và, như ta thấy, có rất nhiều người nhại theo chi tiết này.
(2)Cách gọi âu yếm tên Anna.
  

Yuri Rumer 

AKHMATOVA

Ngày hôm nay em vô cùng mỏi mệt
Trong người em ngự trị một nỗi buồn
Còn phó mát tươi thì lại vô cùng ít
Phó mát tươi – em nhìn thấy mà thương.

Anh bước vào như con ốc im lặng
Sau tiếng hò reo ngày lễ phục sinh
Em thấy yêu vô cùng sợi chỉ trắng
Không hiểu vì sao tuột khỏi vai anh.

Anh yêu ơi đừng gọi là phản bội
Thiếu phó mát tươi em buồn bã, héo hon
Còn bàn tay em thì lại xỏ nhầm
Găng tay phải vào bàn tay bên trái.


Konstantin Mochulsky

 SÁNG HÔM THỨ TƯ ANH ĐẾN THĂM EM

Sáng hôm thứ tư anh đến thăm em
Hai đứa mình mãi mãi là thù nghịch.
Câu chuyện này không bao giờ em quên
Không quên theo mỗi bàn chân anh bước.

Em hỏi anh: “Có muốn uống trà không?”
Anh im lặng, rồi trả lời rằng: “Có”.
Tại vì sao em không biết được rằng
Cứ hằng đêm em gọi tên anh đó.

Khi ra về anh thì thầm: “Tạm biệt”
Còn em trở nên sáng sủa vô cùng
Trên khu vườn có tiếng kêu thảm thiết
Của bầy chim bay lượn giữa không trung.


Aleksandr Arkhangelsky

 QUÊN SAO ĐƯỢC

Quên sao được! Giữa cái rét ghê người
Em bước ra khỏi rừng trong băng giá
Một chiếc xe chở củi từ trên đồi
Đi chầm chậm vẻ chừng rất thích thú.

Đàn chim bay có vẻ nhẹ nhàng hơn
Một người đàn ông ngồi trên lưng ngựa
Đôi găng tay còn dài hơn cùi chỏ
Và chiếc áo lông đến tận bàn chân.

Thở hổn hển, em kêu lên: – cứ đùa!
Anh từ đâu? Trả lời! Em run thế
Một cậu bé trả lời em lặng lẽ:
– Bố chặt cây, còn tôi chở củi về.



Vladimir Nabokov

 EM MẶC CHIẾC VÁY MÀU ĐEN

Em mặc chiếc váy màu đen
Dịu dàng hơn cả bà sư nữ
Và có một cây thập tự
Trên gối chăn lạnh lẽo của em.

Nhưng ngọn lửa ngày lễ Tửu thần
Đốt lên cơn mộng mị
Cái tên Georgi(1) thầm thĩ –
Cái tên ngài bằng vàng!
_______
(1)Georgi – tên một vị thánh của Thiên Chúa giáo. Đây cũng là cái tên đàn ông rất phổ biến ở Nga.


Aleksandr Finkel
ANNA AKHMATOVA

Tất cả vẫn như xưa: vẫn trời xanh
Hoa cỏ ấy vẫn mọc trên đất ấy
Em vẫn thế, không có gì đổi mới
Nhưng mà anh thì đã xa em.

Em hỏi rằng: anh muốn điều gì vậy?
Anh trả lời: nhảy xuống tắm dưới đầm
Em cười: ấy chết, em cảm thấy
Cả hai người thì tai họa đó anh.

Quên sao được? Anh bước ra háo hức
Với những hình bong bóng nước trên tay
Và những bắp thịt cuồn cuộn trên đùi
Đi trên cát vàng tiếng kêu răng rắc.

Có phải là để cho những tháng năm
Trong tình yêu cô đơn qua được
Để anh trao cho làn nước đục
Vẻ cổ xưa và bí ẩn của mình?!

Con tim của em đang lặng lẽ tắt dần
Giữa hồn em bỗng trở nên tăm tối
Em không biết – anh cho em xin lỗi –
Rằng thường xuyên đầu óc nặng hơn chân.

Ô, con tim em sao mà tăm tối lạ
Có lẽ là em đợi phút lâm chung?
Và một mình em hóa thành tượng đá
Trong vẻ tối tăm lạnh lẽo trên đầm.
1914


Anna Terenchieva
CHIA TAY NHẸ NHÀNG

Chia tay nhẹ nhàng, chia tay không thương tiếc
Nếu tình nhân trở nên chán mớ đời
Nếu tình nhân – kẻ mê gái không thôi…

… Chiếc khăn Akhmatova lên cổ mình, tôi quấn…
Và với những bài thơ như điều giáo huấn…


Thơ về A. Akhmatova

Aleksandr Blok

 TẶNG ANNA AKHMATOVA

“Vẻ đẹp kinh hoàng” – người ta bảo chị
Còn chị chiếc khăn Tây Ban Nha
Quàng lên vai mình rất khẽ
Và trên mái tóc – một bông hoa.

“Vẻ đẹp giản đơn” – người ta bảo chị
Còn chị chiếc khăn kéo lại vụng về
Chị quấn khăn lên người thằng bé
Và bông hoa rơi xuống sàn nhà.

Nhưng, chị nghe theo một cách lơ đãng
Tất cả những lời bốn phía vang lên
Chị buồn bã nghĩ thầm trong bụng
Rồi lẩm bẩm với chính mình:

“Tôi không kinh hoàng cũng chẳng giản đơn
Chẳng kinh hoàng để mà đi chém giết
Cũng chẳng giản đơn để mà không biết
Rằng cuộc đời này quá đỗi kinh hoàng!”
1918



Osif Mandelstam
GỬI CASSANDRA*

Anh không đi tìm những khoảnh khắc đầy hoa
Bờ môi em, Cassandra, hay ánh mắt
Nhưng những đêm không ngủ trong tháng chạp
Kỷ niệm xưa vẫn hành hạ hai ta.

Năm 1917, trong tháng chạp
Ta đã để mất tất cả, trong tình
Một người bị ý chí nhân dân cướp bóc
Còn người kia tự cướp bóc chính mình…

Rồi thủ đô sẽ có một khi nào
Trên bờ sông Nê-va, trong ngày lễ
Trong tiếng ồn đêm hội rất kinh sợ
Ai giật chiếc khăn tuyệt đẹp trên đầu.

Nhưng nếu như cuộc đời – cần mê sảng
Và một rừng thông – những ngôi nhà cao –
Anh đã yêu em, vụng về chiến thắng
Và một mùa đông dịch hạch năm nào.

Trên quảng trường với những xe bọc thép
Anh nhìn ra người ấy – một con người
Dọa bệnh than như chó sói dọa người
Hô: bình đẳng, tự do và luật pháp.

Còn em,  Cassandra đớn đau, lặng lẽ
Anh đã không còn có thể nữa đâu em
Mặt trời Aleksandr(2) đã từng cháy lên
Một trăm năm trước soi cho tất cả?
__________
(1)Đây là bài thơ viết về Anna Akhmatova. Cassandra – theo thần thoại Hy Lạp là con gái của vua Priam.
(2)Aleksandr I (1777-1825) – Hoàng đế Nga từ năm 1801.
  

Joseph Brodsky

 GỬI MỘT TRĂM NĂM ANNA AKHMATOVA

Trang sách và lửa, lúa và cối xay
mũi giáo nhọn và mái tóc cắt ngắn
Chúa giữ gìn tất cả - đặc biệt là lời
của tha thứ, tình yêu – như là giữ giọng.

Tiếng xương kêu, mạch đập trong những lời
tiếng xẻng rung lên đều đều, âm ỉ
đời chỉ một – chúng từ những bờ môi
vang lên rõ hơn ở nơi trần thế.

Tâm hồn vĩ đại, tôi cúi chào từ bên kia đại dương
tìm ra những gì cho mình, cho những gì tàn úa
chị ngủ trong lòng đất mẹ, cuộc đời mang ơn
tài thơ chị trong lặng câm Hoàn vũ.

BỨC THƯ GỬI A. AKHMATOVA TỪ THÀNH PHỐ SESTRORETSK

Trong những bụi cây Phần Lan bất tử
nơi những cây thông gian khổ trị vì
trong lòng tôi mừng vui khôn xiết kể
khi vịnh Phần Lan và xóm Komarovo(2)
được chiếu sáng bằng hoàng hôn tuyệt mĩ
chiếc lá vàng vô tư lự mùa thu
cứ mỗi giờ – bằng tình yêu của Chị
và lòng nhân từ của Chị – thiên thu.
1962
_____________
(1)Sestroresk – thành phố ở phía bắc tỉnh Leningrad.
(2)Komarovo – khu làng nghỉ mát bên bờ vịnh Phần Lan, nơi đây có trại sáng tác của các nhà văn và mộ Anna Akhmatova.
  

Evgeny Evtushenko

 TƯỞNG NHỚ AKHMATOVA

Akhmatova là người của hai thời
Có vẻ như về nàng không nên khóc
Nàng đã sống, có vẻ không tin được
Lại không thể tin nàng đã qua đời.

Nàng ra đi, giống như một bài ca
Đi vào sâu thẳm của khu vườn tối
Nàng ra đi, có vẻ như mãi mãi
Từ Leningrad trở về Pê-téc-bua.

Nàng gắn chặt với cả hai thời gian
Giữa tâm điểm của sương và của bóng
Nếu Puskin là mặt trời, thì nàng
Trong thơ ca – sẽ mãi là đêm trắng.

Trên cái chết, bất tử, ngoài tất cả
Nàng đã nằm – có lẽ nói thế này:
Không phải trong hiện tại, mà trên nó
Nàng đã nằm giữa quá khứ, tương lai.

Và quá khứ bên quan tài im lặng
Không như của người sống hợp ý trời.
Bờm tóc bạc sáng sủa và kiêu hãnh
Lấp lánh từ những chíêc mũ lỗi thời.

Vâng, thời gian làm đổi thay đường nét
Những con người thời đó ở nước Nga
Nhưng đôi mắt họ – ánh sáng nhân từ –
Chẳng gió xoáy hay sương nào dập tắt.

Tương lai yếu đuối trên những đôi vai
Những cậu bé đi đến trường đã đốt
Ngọn lửa học trò trong từng đôi mắt
Những cuốn vở con nắm chặt trong tay.

Và những cô bé trong cặp của mình
Có lẽ mang nhật ký và danh mục
Họ vẫn thế – thiêng liêng và hạnh phúc
Vẫn ngây thơ như ngày ấy nữ sinh.

Sự sụp đổ toàn cầu, xin đừng để
Mất đi mối liên hệ của thời gian
Vì không thể hai nước Nga – điều giản đơn
Cũng như hai Akhmatova, không thể.

Xem thêm: