115. CƠ THỂ TÔI THAY ĐỔI LẠ LÙNG SAO
Cơ thể tôi thay đổi lạ lùng sao
Còn cái miệng mệt rã rời nhợt tái
Tôi đâu muốn cái chết buồn như vậy
Thời hạn này tôi có định trước đâu.
Tôi ngỡ rằng mây đen với mây đen
Xô đẩy nhau trên bầu trời cao vút
Và ánh lửa
đang bay trong tia chớp
Giọng nói
mừng vui mạnh mẽ vô cùng
Như xuống
đây thăm tôi những thiên thần.
1913
Как страшно изменилось тело
Как страшно изменилось тело,
Как рот измученный поблек!
Я смерти не такой хотела,
Не этот назначала срок.
Казалось мне, что туча с тучей
Сшибется где-то в вышине
И молнии огонь летучий
И голос радости могучей,
Как Ангелы, сойдут ко мне.
1913
116. EM KHÔNG BUÔNG RÈM CỬA SỔ
Em không buông rèm cửa sổ
Anh hãy nhìn thẳng vào kia.
Vì thế mà em bây giờ vui vẻ
Rằng anh
không thể ra về.
Hãy gọi em
là kẻ ngoại tình
Cái ác đã
từng hành hạ:
Em đã từng
làm anh mất ngủ
Đã từng là
nỗi buồn nhớ của anh.
1916
Я окошка не завесила
Я окошка не завесила,
Прямо в горницу гляди.
Оттого мне нынче весело,
Что не можешь ты уйти.
Называй же беззаконницей,
Надо мной глумись со зла:
Я была твоей бессонницей,
Я тоской твоей была.
1916
117. CUỘC GẶP NÀY
Cuộc gặp này không ca ngợi ai đâu
Thiếu bài ca nỗi buồn chìm lắng xuống
Đã đến đây một mùa hè mát lạnh
Tựa hồ như cuộc sống mới bắt đầu.
Bầu trời ngỡ như làm bằng đá
Chạm vào ngọn lửa màu vàng
Cần thiết hơn cả thứ rất cần
Với em, một lời về anh đó.
Anh như giọt sương trên cỏ
Anh hãy làm cho sống dậy hồn em
Không vì đam mê hay tiêu khiển đâu anh
Vì tình yêu lớn lao nơi trần thế.
1916
Эта встреча никем не воспета
Эта встреча никем не воспета,
И без песен печаль улеглась.
Наступило прохладное лето,
Словно новая жизнь началась.
Сводом каменным кажется небо,
Уязвленное желтым огнем,
И нужнее насущного хлеба
Мне единое слово о нем.
Ты, росой окропляющий травы,
Вестью душу мою оживи, -
Не для страсти, не для забавы,
Для великой земной любви.
1916
118. CHỈ CÒN LẠI MÌNH TÔI
Chỉ còn lại một mình tôi
Đếm những ngày trống vắng
Ơi những người mà tôi coi là bạn
Ơi những con thiên nga của tôi ơi!
Bằng bài ca tôi không gọi các người
Tôi không tin vào nước mắt
Nhưng buổi chiều, giờ buồn bã nhất
Trong lời nguyện cầu tôi nhớ đến thôi.
Gặp mũi tên cái chết
Ngã xuống một người trong số các anh
Một người khác như con quạ màu đen
Sẽ yêu tôi
tha thiết.
Nhưng chỉ
một lần trong năm
Khi những
tảng băng tan hết
Và khi đó
trong khu vườn
Tôi đứng
bên dòng nước sạch.
Và tôi
nghe tiếng vỗ đôi cánh rộng
Trên mặt
nước màu xanh.
Nhưng tôi không
biết được rằng
Ai là
người nắp quan tài mở sẵn.
1916
И вот одна осталась я
И вот одна осталась я
Считать пустые дни.
О вольные мои друзья,
О лебеди мои!
И песней я не скличу вас,
Слезами не верну,
Но вечером в печальный час
В молитве помяну.
Настигнут смертною стрелой,
Один из вас упал,
И черным вороном другой,
Меня целуя, стал.
Но так бывает раз в году,
Когда растает лед,
В Екатеринином саду
Стою у чистых вод
И слышу плеск широких крыл
Над гладью голубой.
Не знаю, кто окно раскрыл
В темнице гробовой.
1917
119. VƯỜN BÊN BIỂN
Vườn bên biển, con đường đang dần tối
Những cây đèn toả ánh sáng màu vàng
Em rất bình tĩnh. Chỉ một điều, không cần
Đi nói chuyện với em về người ấy.
Anh sẽ là bạn em, thuỷ chung, dịu dàng, thắm thiết
Sẽ hôn nhau, sẽ dan díu, sẽ già đi…
Và những
mảnh trăng non bay trên đầu ta
Giống như
là những ngôi sao tuyết.
1914
Чернеет дорога приморского сада
Чернеет дорога приморского сада,
Желты и свежи фонари.
Я очень спокойная. Только не надо
Со мною о нем говорить.
Ты милый и верный, мы будем друзьями...
Гулять, целоваться, стареть...
И легкие месяцы будут над нами,
Как
снежные звезды, лететь.
1914
An alley
turns black in the littoral garden,
The yellow
lamps are fresh-free.
I am very
quiet, I am no more ardent,
But don't
speak about him with me.
You are
true and tender; as friends we’ll be dwelling,
Have
walks, kiss each other, get old.
And
weightless young moons will be over us sailing
Like
flakes of snow-stars in the cold.
120. SAO ANH
CÓ THỂ NHÌN XUỐNG SÔNG
Sao anh có
thể nhìn xuống sông
Sao anh
dám bước lên cầu như thế?..
Em mang
tiếng hay buồn, không vô cớ
Từ cái
ngày em gặp gỡ với anh.
Những đôi
cánh của những thiên thần đen
Phiên xét
xử sắp tới đây lần cuối
Và đống
lửa cây mâm xôi đang cháy
Tựa hồ như
trong tuyết, nở hoa hồng.
1914
Как ты можешь смотреть на Неву
Как ты можешь смотреть на Неву,
Как ты смеешь всходить на мосты?..
Я недаром печальной слыву
С той поры, как привиделся ты.
Черных ангелов крылья остры,
Скоро будет последний суд.
И малиновые костры,
Словно розы, в снегу растут.
1914
121.LY
BIỆT
Con đường
chiều thoai thoải
Nghiêng
xuống trước mặt em.
Hôm qua
người yêu dấu
Còn năn
nỉ: “Đừng quên”.
Thế mà giờ
chỉ gió
Tiếng kêu
trẻ chăn cừu
Những cây
tùng nức nở
Bên dòng
nước trong veo.
1914
Разлука
Вечерний и наклонный
Передо мною путь.
Вчера еще, влюбленный,
Молил: "Не позабудь".
А нынче только ветры
Да крики пастухов,
Взволнованные кедры
У чистых родников.
1914
122. CHÀO! ANH CÓ NGHE RA TIẾNG XÀO XẠC
Chào! Anh có nghe ra tiếng xào xạc
Ở bên phải cái bàn?
Những dòng này anh chưa viết hết –
Em đã gửi
đến cho anh.
Chẳng lẽ
anh lại giận em
Giống như
lần trước
Anh nói
rằng những bàn tay không thấy được
Những bàn
tay và đôi mắt của em.
Ở nơi anh
trong sáng và giản đơn
Anh dừng
kéo em về phía đó
Nơi ngột
ngạt dưới vòm cầu mở
Dòng nước
bẩn sẽ lạnh hơn.
10-1913
Здравствуй! Легкий шелест слышишь
Здравствуй! Легкий шелест слышишь
Справа от стола?
Этих строчек не допишешь -
Я к тебе пришла.
Неужели ты обидишь
Так, как в прошлый раз, -
Говоришь, что рук не видишь,
Рук моих и глаз.
У тебя светло и просто.
Не гони меня туда,
Где под душным сводом моста
Стынет грязная вода.
1913
123. TRONG TIM NHẠT MỜ KÝ ỨC VẦNG DƯƠNG
Trong tim
nhạt mờ kí ức vầng dương
Hoa cỏ
vàng hơn trước
Ngọn gió
thổi lên những bông tuyết đầu đông
Dường như
rất khó nhọc.
Trong
những dòng kênh hẹp đã thôi rì rào
Nước đã
thành băng giá
Ở đây sẽ
không điều gì xảy ra được nữa
Không bao
giờ đâu!
Cây dương
liễu giữa trời xoè rộng
Thành cánh
quạt mong manh
Sẽ tốt
hơn, nếu mà em đã chẳng
Từng là vợ
của anh.
Trong tim
nhạt mờ kí ức vầng dương
Sẽ chỉ còn
bóng tối?
Có thể
lắm! Sau đêm này sẽ tới
Mùa đông.
1911
Память о солнце в сердце слабеет
Память о солнце в сердце слабеет,
Желтей трава,
Ветер снежинками ранними веет
Едва-едва.
В узких каналах уже не струится -
Стынет вода,
Здесь никогда ничего не случится.-
О, никогда!
Ива на небе кустом распластала
Веер сквозной.
Может быть, лучше, что я не стала
Вашей женой.
Память о солнце в сердце слабеет.
Что это? Тьма?
Может быть! За ночь прийти успеет
Зима.
1911
124. VÀ CON TIM ĐÃ THÔI ĐỒNG VỌNG
Tưởng nhớ Nikolai Punin
Và con tim đã thôi đồng vọng
Với giọng nói của em, vui cũng như buồn.
Hết thật rồi!… Thơ đi vào đêm vắng
Nơi ấy muôn đời đã chẳng còn anh.
1953
__________
* Bài thơ tưởng nhớ Nikolai Nikolaevich Punin, người đã chết trong trại ở Vorkuta tháng 8 năm 1953.
И сердце то уже не отзовется
Памяти Н. П.
И сердце то уже не отзовется
На голос мой, ликуя и скорбя.
Все кончено... И песнь моя несется
В пустую ночь, где больше нет тебя.
1953
125. ANH
CHỌN CHỖ NGỒI TRONG GÓC
Anh chọn
chỗ ngồi trong góc
Bên trái,
nơi hướng vào đêm
Để thả con
chim – mối u sầu của em
Vào đêm
vắng ngắt.
Anh yêu!
tay anh không run rẩy
Và em chờ
đợi không lâu
Con chim
của em bay đi – mối u sầu
Đậu lên
cành cây và bắt đầu hót đấy.
Để người
ta bình tĩnh trong nhà mình
Anh mở cửa
sổ toang ra và nói:
“Lời không
hiểu nhưng giọng nói rất quen”
Còn đôi
mắt nhắm lại.
1914
Углем наметил на левом боку
Углем наметил на левом боку
Место, куда стрелять,
Чтоб выпустить птицу - мою тоску
В пустынную ночь опять.
Милый! не дрогнет твоя рука,
И мне недолго терпеть.
Вылетит птица - моя тоска,
Сядет на ветку и станет петь.
Чтоб тот, кто спокоен в своем дому,
Раскрывши окно, сказал:
"Голос знакомый, а слов не пойму", -
И опустил глаза.
1914
126. TA KHÔNG CÙNG NHỮNG KẺ
Ta không cùng những kẻ
Bỏ quê hương, mặc cắn xé quân thù
Ta không nghe lời tâng bốc của họ
Và không
trao cho họ những bài thơ.
Nhưng muôn
thuở thương kẻ đày phát vãng
Như kẻ tù
nhân, như kẻ tật nguyền.
Con đường
tối tăm của người du lãng
Mùi bánh
mì, ngải cứu lạ bốc lên.
Còn ở đây,
trong khói đám cháy này
Ta phí
hoài chút tuổi xuân còn lại
Nhưng chưa
từng một đòn đau nào
Nhận về
mình ta từ chối.
Ta biết,
sự đánh giá sau này, dù chậm
Sẽ thanh
minh cho từng phút, từng giờ
Nhưng trên
đời không có người đơn giản
Không nước
mắt và kiêu hãnh hơn ta.
1922
Не с теми я, кто бросил землю
Не с теми я, кто бросил землю
На растерзание врагам.
Их грубой лести я не внемлю,
Им песен я своих не дам.
Но вечно жалок мне изгнанник,
Как заключенный, как больной.
Темна твоя дорога, странник,
Полынью пахнет хлеб чужой.
А здесь, в глухом чаду пожара
Остаток юности губя,
Мы ни единого удара
Не отклонили от себя.
И знаем, что в оценке поздней
Оправдан будет каждый час...
Но в мире нет людей бесслезней,
Надменнее и проще нас.
1922
127. NGÀY TUYÊN BỐ CHIẾN TRANH
Sống –
theo ý muốn, tự do
Chết –
cùng quê hương, xứ sở
Cánh đồng
Volkovo
Một màu
vàng rơm rạ.
1939
Жить - так на воле
Жить - так на воле,
Умирать - так дома.
Волково поле,
Желтая солома.
(День объявления войны),
<1939>
128. VÀ CON TIM ĐÃ KHÔNG CÓ GÌ CẦN
Và con tim đã không có gì cần
Khi tôi uống cái nóng này bỏng rát
Khối không khí khổng lồ “Ônhêgin”
Như đám mây, hiện ra trước mặt.
1962
И было сердцу ничего не надо
И было сердцу ничего не надо,
Когда пила я этот жгучий зной...
"Онегина" воздушная громада,
Как облако, стояла надо мной.
1962
129. PETROGRAD 1919
Và ta đã quên đến muôn đời
Khi ở lại
trong thủ đô hoang dã
Những hồ
nước, những thảo nguyên, thành phố
Những bình
minh ngời chói của quê hương.
Trong vòng
máu lửa, cả ngày, cả đêm
Vẫn tuôn
ra sự hành hình khắc nghiệt…
Và cho ta
chẳng còn ai muốn giúp
Vì một
điều rằng ta ở lại nhà
Vì rằng ta
yêu thành phố của ta
Mà không
phải là tự do bay bổng
Ta gìn giữ
cho mình
Lửa và
nước, và lâu đài, cung điện.
Rồi một
thời sẽ đến
Ngọn gió
chết chóc làm buốt giá con tim
Nhưng với
ta – thành phố của Pi-ốt thiêng liêng
Sẽ mãi là
một tượng đài kỉ niệm.
1919
Петроград, 1919
И мы забыли навсегда,
Заключены в столице дикой,
Озера, степи, города
И зори родины великой.
В кругу кровавом день и ночь
Долит жестокая истома...
Никто нам не хотел помочь
За то, что мы остались дома,
За то, что, город свой любя,
А не крылатую свободу,
Мы сохранили для себя
Его дворцы, огонь и воду.
Иная близится пора,
Уж ветер смерти сердце студит,
Но нам священный град Петра
Невольным памятником будет.
1919
130. LỜI THỀ
Người con gái hôm nay vĩnh biệt người thương
Sẽ biến nỗi đau thương của mình thành sức mạnh
Ta thề với cháu con, với những nấm mồ yên lặng
Rằng không ai bắt được ta quì gối đầu hàng!
7-1941
Клятва
И та, что сегодня прощается с милым,-
Пусть боль свою в силу она переплавит.
Мы детям клянемся, клянемся могилам,
Что нас покориться никто не заставит!
1941
131. LENIGRAD
THÁNG 3 NĂM 1941
Cardan
Solaire* trên nhà Mesinkov
Con tàu đi
qua ngọn sóng dâng cao
Trên đời
này có điều gì quen thuộc
Hơn ánh
lửa máy tàu và ngọn sóng lao xao!
Như nước
kiềm, con đường tối mịt
Bầy chim
non lên dây điện đậu vào.
Trong
những lần dạo chơi từng quen thuộc
Vị mặn mòi
thì cũng chẳng sao.
____________
*Đồng
hồ mặt trời (tiếng Pháp)
1941
Ленинград в марте 1941 года
Cardan solaire* на
Меньшиковом доме.
Подняв волну, проходит пароход.
О, есть ли что на свете мне знакомей,
Чем шпилей блеск и отблеск этих вод!
Как щелочка, чернеет переулок.
Садятся воробьи на провода.
У наизусть затверженных прогулок
Соленый привкус — тоже не беда.
1941
132. TƯỞNG NHỚ MỘT NGƯỜI BẠN
Trong ngày Chiến Thắng màn sương nhẹ mỏng
Khi bình minh với khuôn mặt đỏ bừng
Như người goá phụ – mùa xuân muộn màng
Bên ngôi mộ vô danh đầu cúi xuống.
Rồi đứng lên vội vàng xuân đã chẳng
Để còn vuốt ve hoa cỏ, mầm cây
Đặt com bướm xuống đất từ trên vai
Và cây bồ công anh đầu mùa xoè rộng
1945
Памяти друга
И в День Победы, нежный и туманный,
Когда заря, как зарево, красна,
Вдовою у могилы безымянной
Хлопочет запоздалая весна.
Она с колен подняться не спешит,
Дохнет на почку, и траву погладит,
И бабочку с плеча на землю ссадит,
И первый одуванчик распушит.
1945
133. CHIẾN THẮNG
1
Bắt đầu sự nghiệp vinh quang của ta
Trong
tiếng ồn ào, trong bụi tuyết
Và cơ thể
vô cùng mỏi mệt
Của đất
đai bởi nhục mạ quân thù.
Những cây
bạch dương thân yêu hướng về ta
Giương lá
cành và đợi chờ, lên tiếng
Những ông
già Tuyết oai hùng, cường tráng
Đã xếp
thành đội ngũ, bước theo ta.
2
Trên đập
chắn sóng, ngọn đèn biển đầu tiên
Bừng sáng
lên gọi theo đèn biển khác
Người thuỷ
thủ bỏ mũ ra và khóc
Rằng đã
từng bơi trong biển chết ngày nào
Dọc theo
cái chết, hướng cái chết đi vào.
3
Chiến
Thắng đang đứng bên cửa nhà ta…
Như người
khách mong chờ ta đón gặp
Để những
người phụ nữ sẽ giơ cao
Những đứa
con thoát từ nghìn cái chết
Ta trả lời
cái chết đợi chờ lâu.
1942-1945
Победа
1
Славно начато славное дело
В грозном грохоте, в снежной пыли,
Где томится пречистое тело
Оскверненной врагами земли.
К нам оттуда родные березы
Тянут ветки и ждут и зовут,
И могучие деды-морозы
С нами сомкнутым строем идут.
2
Вспыхнул над молом первый маяк,
Других маяков предтеча,—
Заплакал и шапку снял моряк,
Что плавал в набитых смертью морях
Вдоль смерти и смерти навстречу.
3
Победа у наших стоит дверей...
Как гостью желанную встретим?
Пусть женщины выше поднимут детей,
Спасенных от тысячи тысяч смертей,—
Так мы долгожданной ответим.
1942-1945
134. TỪ TRÊN MÁY BAY
1
Một trăm dặm, một trăm vexta
Một trăm ki-lô-mét
Đất đai nằm, cây vũ mâu xào xạc
Và đen thẫm rừng bá hương
Có vẻ như đấy là lần đầu tiên
Tôi ngắm nhìn Tổ Quốc
Tất cả của tôi – tôi biết rằng:
Tất cả của tôi, cả hồn lẫn xác.
2
Tôi đánh dấu ngày này bằng hòn đá trắng
Khi tôi hát về Chiến Thắng
Khi Thắng lợi đón chào tôi
Tôi bay lên, tôi vượt quá mặt trời.
3
Và xào xạc dưới chân hoa cỏ
Của sân bay mùa xuân
Những ngôi nhà - chẳng lẽ nhà như thế!
Tất cả như mới mẻ thân quen
Và vẻ mỏi
mệt trong tim
Và đầu óc
ngọt ngào choáng váng…
Trong
tiếng sấm đầu xuân
Mátxcơva –
người Chiến Thắng!
5-1944
С самолета
1
На сотни верст, на сотни миль,
На сотни километров
Лежала соль, шумел ковыль,
Чернели рощи кедров.
Как в первый раз я на нее,
На Родину, глядела.
Я знала: это все мое —
Душа моя и тело.
2
Белым камнем тот день отмечу,
Когда я о победе пела,
Когда я победе навстречу,
Обгоняя солнце, летела.
3
И весеннего аэродрома
Шелестит под ногой трава.
Дома, дома — ужели дома!
Как все ново и как знакомо,
И такая в сердце истома,
Сладко кружится голова...
В свежем грохоте майского грома —
Победительница Москва!
Май 1944
135. NĂM NĂM TRÔI QUA
Năm năm trôi qua
Những vết thương chiến tranh lành lặn
Đất nước tôi, những cánh đồng Nga
Lại đầy ắp giá băng, tĩnh lặng.
Và những ngọn đèn biển xuyên qua bóng đêm
Hãy cháy lên chỉ đường cho thuỷ thủ
Những đôi mắt bạn bè như ngọn lửa
Từ biển xa xôi đang dõi mắt nhìn.
Nơi xưa xe tăng rú gầm – giờ máy kéo hoà bình
Vườn cây xanh – nơi xưa là đám cháy
Trên những con đường ngày xưa lầy lội
Giờ xe hơi
vun vút lao nhanh.
Nơi ngày
xưa những cây thông gãy cành
Vì đạn bom
– giờ rừng thông xanh ngắt
Nơi xưa
con tim khổ đau vì xa cách
Giờ đưa
nôi, bà mẹ hát ru con.
Đất nước
tự do và sẽ hùng mạnh hơn
Đất nước
tôi! Nhưng xin muôn đời, mãi mãi
Ký ức về
lửa chiến tranh thiêu trụi
Sống trong
lòng, trong trí nhớ nhân dân.
Cho những
thế hệ sau trong cuộc sống hoà bình
Từ biển
Caxpiên đến vùng bắc cực
Từ những
xóm làng thiêu trụi trong ký ức
Sẽ mọc lên
những thành phố mới đẹp xinh.
1950
Прошло пять лет,— и залечила раны
Прошло пять лет,— и залечила раны,
Жестокой нанесенные войной,
Страна моя, и русские поляны
Опять полны студеной тишиной.
И маяки сквозь мрак приморской ночи,
Путь указуя моряку, горят.
На их огонь, как в дружеские очи,
Далеко с моря моряки глядят.
Где танк гремел — там ныне мирный трактор,
Где выл пожар — благоухает сад,
И по изрытому когда-то тракту
Автомобили легкие летят.
Где елей искалеченные руки
Взывали к мщенью — зеленеет ель,
И там, где сердце ныло от разлуки,—
Там мать поет, качая колыбель.
Ты стала вновь могучей и свободной,
Страна моя! Но живы навсегда
В сокровищнице памяти народной
Войной испепеленные года.
Для мирной жизни юных поколений,
От Каспия и до полярных льдов,
Как памятники выжженных селений,
Встают громады новых городов.
Май 1950
136. BÀI HÁT RU
Nơi xa xôi miền rừng núi
Bên những dòng sông xanh
Có người tiều phu đốn củi
Sống với những đứa con mình.
Đứa con út vô cùng nhỏ bé
Như mẹ hát ru con
Hãy ngủ ngoan, con trai của mẹ
Mẹ kém cỏi vô cùng.
Tin về cha
hiếm khi bay đến
Với hai mẹ
con ta
Và cây
thập ác màu trắng
Người ta
dành sẵn cho cha.
Từng khổ
đau, sẽ còn đau khổ nữa
Mẹ cháy
lên đến cùng
Lạy Ngài
Êgori thần thánh
Sẽ bảo vệ
cha con.
1915
Колыбельная
Далеко в лесу огромном,
Возле синих рек,
Жил с детьми в избушке темной
Бедный дровосек.
Младший сын был ростом с пальчик,-
Как тебя унять,
Спи, мой тихий, спи, мой мальчик,
Я дурная мать.
Долетают редко вести
К нашему крыльцу,
Подарили белый крестик
Твоему отцу.
Было горе, будет горе,
Горю нет конца,
Да хранит святой Егорий
Твоего отца.
1915
137. TA BƯỚC ĐI TẤT CẢ ĐÃ KHÔNG CẦN
Ta bước đi, tất cả đã không cần
Khi người bạn đường – chỉ là chiếc bóng
Và ngọn gió từ khu vườn hoang vắng
Và bậc thang mộ chí ở dưới chân.
1964
А я иду, где ничего не надо,
Где самый милый спутник — только тень,
И веет ветер из глухого сада,
А под ногой могильная ступень.
1964
138. BĂNG GIÁ ĐANG PHỦ MỜ TRÊN MẶT KÍNH
Băng giá đang phủ mờ trên mặt kính
Tiếng đồng hồ chậm rãi: “Chớ nhát gan!”
Có vẻ như ai đấy đang đến gần
Tôi sợ hãi như người đang chết điếng.
Như thần tượng, tôi cầu xin cánh cửa
“Hãy đừng cho điều tai hoạ vào đây!”
Ai tru tréo sau tường, như thú dữ
Ai đang giấu mình sau những lùm cây?
1945
На стеклах нарастает лед
На стеклах нарастает лед,
Часы твердят: «Не трусь!»
Услышать, что ко мне идет,
И мертвой я боюсь.
Как идола, молю я дверь;
«Не пропускай беду!»
Кто воет за стеной, как зверь,
Кто прячется в саду?
1945
139. TẠI VÌ SAO CÁC NGƯỜI ĐẦU ĐỘC NƯỚC
Tại vì sao các ngươi đầu độc nước
Và vấy bẩn lên những ổ bánh mì?
Niềm tự do cuối cùng ta có được
Các ngươi biến thành một ổ gian phi?
Tại vì ta đã không từng nhạo báng
Cái chết đắng cay của bạn bè chăng?
Tại vì ta vẫn trung thành đứng vững
Vẫn thuỷ chung với tổ quốc đau buồn?
Thôi đành thế! Không hành hình, đao phủ
Mặt đất này không đáng có nhà thơ.
Hãy cho ta mặc áo bào sám lễ
Ta ra đi với ngọn nến và tru.
1935
Зачем вы отравили воду
Зачем вы отравили воду
И с грязью мой смешали хлеб?
Зачем последнюю свободу
Вы превращаете в вертеп?
За то, что я не издевалась
Над горькой гибелью друзей?
За то, что я верна осталась
Печальной родине моей?
Пусть так. Без палача и плахи
Поэту на земле не быть.
Нам покаянные рубахи,
Нам со свечой идти и выть.
1935
140. LỜI CẦU NGUYỆN
Hãy cho ta những tháng năm cay đắng
Mất ngủ, bồi hồi, ngạt thở, xót xa
Cứ lấy đi cả đứa con, người bạn
Quà tặng bí huyền của những bài ca.
Ta nguyện
cầu trong Thánh lễ linh thiêng
Sau biết
bao những đêm ngày mệt mỏi
Để mây đen
trên nước Nga tăm tối
Thành mây
hồng trong ánh sáng quang vinh.
1915
Молитва
Дай мне горькие годы недуга,
Задыханья, бессонницу, жар,
Отыми и ребенка, и друга,
И таинственный песенный дар —
Так молюсь за Твоей литургией
После стольких томительных дней,
Чтобы туча над темной Россией
Стала облаком в славе лучей
1915
141. ANH ĐÃ KHÔNG CÒN NỮA
Anh đã không còn nữa giữa trần gian
Anh đã không đứng lên từ tuyết trắng
Hai mươi tám nhát gươm
Và năm phát đạn.
Áo liệm đau buồn
Tôi may cho người bạn đời yêu dấu
Đất Nga ơi, sao người yêu máu
Sao người yêu máu vậy, đất quê hương.
16-8-1921
Не бывать тебе в живых
Не бывать тебе в живых,
Со снегу не встать.
Двадцать восемь штыковых,
Огнестрельных пять.
Горькую обновушку
Другу шила я.
Любит, любит кровушку
Русская земля.
1921